Sách lược cải tổ hệ thống
quân đội (The armed forces)
Trích cuốn:
Sách lược chuyển hóa dân chủ
cho một Việt Nam hậu cộng sản
(Cải tổ hệ thống hành chánh,
quân đội, công an và hệ thống pháp lý Việt Nam)
Tác giả: Luật sư Đào Tăng Dực
Daotangduc.blogspot.com
Đối với một quốc gia giáp giới Trung Quốc và có vị trí địa chính trị
như Việt Nam, quốc phòng phải là mối quan tâm trong gan ruột của toàn dân.
Quân độiVN trong hiện trạng không thể bảo vệ tổ quốc vẹn toàn vì những
khuyết điểm chúng ta sẽ phân tích trong bài và cần một sự cải tổ nền tảng như
sau.
Hiến pháp 2013 quy định cả quân đội lẫn công an đều nằm trong chương IV
với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.
I.
Tương quan quyền lực giữa quân đội và công an trong Hiến Pháp:
Đảng CSVN cướp được chính quyền bằng vũ lực
và giữ được chính quyền bằng công an, nên nền tảng pháp lý của 2 thực thể quân
đội và công an, được hiến định hóa trong Hiến Pháp 2013, qua chương IV (Bảo vệ
tổ quốc).
Khi các điều 64, 65 và 68 của Hiến Pháp 2013
nhắc đến cụm từ “Lực lượng vũ trang nhân dân”, thì lực lượng này bao gồm cả
quân đội lẫn công an. Chính vì thế, khác với các quốc gia dân chủ trên thế
giới, công an CSVN cũng như công an tại LBXV xưa và LB Nga hôm nay, đều được tổ
chức theo các đẳng cấp tương đương với quân hàm trong quân đội. Ở điểm này công
an CSVN khác với công an CSTQ. Công an CSTQ không theo quân hàm của quân đội,
trừ nghành cảnh sát vũ trang. Lý do là vì CSVN, trong cấu trúc quyền lực,
nghiên về mô hình Liên Xô, coi trọng công an mật vụ và sử dụng công an để khống
chế quân đội, như Lê Nin và Stalin từng làm. Hồ Chí Minh là một thành viên của
Phong Trào Đệ Tam Quốc Tế và được huấn luyện trong trường đảng của Stalin, sau
đó mới tiếp xúc và xây dựng liên hệ với đảng CSTQ, dưới sự lãnh đạo của Mao
Trạch Đông.
Chính vì thế công an giữ một vai trò vượt
trội quân đội trong hệ thống quyền lực đảng CSVN, mặc dù quân đội nắm vai trò
chủ động trong công cuộc kháng Pháp và chống Mỹ.
Trong khi đó, đảng CSTQ, dưới sự lãnh đạo
của Mao Trạch Đông, cướp được chính quyền qua cuộc Vạn Lý Trường Chinh lịch sử,
xây dựng quân đội hùng mạnh, đánh bại quân đội của Trung Hoa Quốc Dân Đảng (có
sự ủng hộ của Hoa Kỳ) vào năm 1949 và thống trị Hoa Lục. Trong đảng CSTQ, chức
vụ Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương còn quan trọng hơn chức Tổng Bí Thư đảng hoặc
chủ tịch nước nữa. Công an chỉ là một công cụ của đảng và hoàn toàn không phải
là đối thủ của quân đội.
Khi duyệt xét hiện trạng của quân đội CSVN,
chúng ta phải ý thức rõ tương quan quyền lực giữa quân đội và công an này.
II.
Hiện trạng quân đội:
Theo Wikipedia tiếng Việt (Quân đội nhân dân
Việt Nam – Wikipedia tiếng Việt):
1. Một cách tổng quát quân
đội CSVN được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944.
Địa chỉ: Sở chỉ huy Bộ Quốc phòng, Số 7 Nguyễn Tri
Phương, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội.
2. Khẩu hiệu “Quân đội ta trung
với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
3. Hệ thống đẳng cấp lãnh đạo (từ quân sự đến chính trị như hệ thống
chính ủy)
Bí thư Quân ủy Trung ương: TBT Nguyễn Phú Trọng
Thống lĩnh: CTN Võ Văn Thưởng (vừa
từ chức khi sách này được chấp bút)
Bộ trưởng Quốc phòng: Tướng
Phan Văn Giang
Tổng Tham mưu trưởng: Tướng Nguyễn Tân Cương
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị:
Lương Cường
1. Quân số mỗi ngành (hải lục
không quân)
Các nhánh phục vụ:
-
Lục quân
-
Phòng không-Không quân
-
Hải quân
-
Biên phòng
-
Không gian mạng
-
Cảnh sát biển
4. Nhân lực
-
Tuổi nhập ngũ 18-25
tuổi (18-27 tuổi đối với công dân theo học tại các trường Cao đẳng, Đại học)
-
Cưỡng bách tòng quân Nghĩa
vụ quân sự bắt buộc 24 tháng đối với nam công dân khỏe mạnh
-
Số quân tại ngũ 482.000
-
Số quân dự bị 5.040.000
5. Ngân sách cho Quân đội
Ngân sách US$ 5.3 tỷ
(2021)
Tuy nhiên theo Wikipedia Anh ngữ thì
Ngân sách: US$ 7.8 billion
(2023)
6. Thực trạng về vũ trang của
quân đội (các loại vũ khí khác nhau)
Công nghiệp, Nhà cung cấp nội địa: VDI, Viettel
Nhà cung cấp nước ngoài Hiện nay: Nga, Ấn
Độ, Cộng hòa Séc, Israel, Hoa Kỳ
III. Phân tích bản chất hiện
tại của Quân Đội CSVN:
Sau khi đọc kỹ chương IV (Bảo vệ tổ quốc)
của Hiến Pháp 2013, chúng ta có thể rút các kết luận sau đây về vai trò hiến
định của quân đội CSVN:
(1). Đảng CSVN không chấp nhận đối lập chính
trị, nên công an cũng được xếp vào “lực lượng vũ trang” ngang hàng với quân đội
và nằm trong chương IV (Bảo vệ tổ quốc). Có nghĩa là quân đội thì bảo vệ tổ
quốc chống ngoại xâm, còn công an bảo vệ “tổ quốc xã hội chủ nghĩa” chống lại
các thành phần quốc gia, phát xuất từ chính nhân dân. Dĩ nhiên điều này không
có nghĩa là nếu đảng bị lâm nguy, vì nhân dân nổi dậy, thì đảng sẽ không sử
dụng quân đội để đàn áp.
(2). Điều 64 minh thị định nghĩa “Bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân”. Có nghĩa là quân đội
và công an chỉ có trách nhiệm bảo vệ tổ quốc VN “xã hội chủ nghĩa”. Hai lực
lượng này không cần bảo vệ tổ quốc VN, nếu nhân dân quyết định buông bỏ xã hội
chủ nghĩa, như các quốc gia Đông Âu và các quốc gia cựu thành viên của LBXV đã
buông bỏ.
(3). Điều 65 tuy ngôn từ dài dòng và hàm hồ
nhưng tựu trung quy định Lực lượng vũ trang nhân dân (tức quân đội
và công an) tuyệt đối trung thành và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng CSVN, chế độ xã hội chủ
nghĩa. Tóm lại Quân đội và công an là công cụ chỉ trung thành và bảo vệ đảng
CSVN vì đảng chủ trương tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
(4). Tuy 2 điều 66 (Quân đội) và 67 (công
an) được tách rời, nhưng điều 68, cũng với ngôn từ hàm hồ, nhưng tựu trung lại
kết chặt vai trò hiến định của quân đội và công an trong trách nhiệm bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa và đảng CSVN.
IV. Thảo luận về vai trò của
người quân nhân trong Nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính:
(1)
Sự tôn quý của một quân
nhân chân chính:
Làm người lính, hay quân nhân chuyên nghiệp, là một trong những nghề
nghiệp tôn quý nhất của xã hội. Chính vì thế, trong những nền dân chủ chân
chính như tại Hoa Kỳ, Anh Quốc hoặc Úc Đại Lợi, nhiều vị tướng lãnh hưu trí có
uy tín, thường được vinh danh, truy tặng các tước hiệu hoặc bổ nhiệm vào các
định chế công quyền cấp cao (higher public institutions), các ủy ban điều tra
quan trọng, để giải quyết những vấn nạn xã hội mà các chính trị gia không đủ uy
tín và niềm tin của quần chúng để giải quyết.
Như tại Úc Đại Lợi, nhiều vị tướng lãnh được bổ nhiệm vào các chức vụ
toàn quyền (governor) của tiểu bang hay tổng toàn quyền (governor general) của
liên bang, đại diện cho quốc vương.
Câu hỏi chúng ta phải đặt ra là:
1. Thế nào là định nghĩa nghiêm chỉnh về vai trò một người lính hay một
quân nhân trong một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên?
2. Tại sao các quân nhân trong các nền dân chủ chân chính được tôn quý
trên nhiều giai cấp khác trong xã hội?
3. Tại sao tập thể quân nhân trong các chế độ cộng sản đã trở thành
những tập thể thoái hóa và là một trong những trở lực lớn lao cho tiến trình
dân chủ hóa?
(2) Sự tôn quý của quân nhân
phát xuất từ trách nhiệm bảo vệ tổ quốc:
Khi suy gẫm thật kỹ về các vấn nạn này, chúng ta phát hiện rằng, ý niệm
về người lính hoặc quân nhân đúng nghĩa, hầu như không thể tách rời khỏi ý niệm
về tổ quốc.
Thật vậy, nếu trở về với thời buổi ban sơ của nhân loại, khi xã hội
loài người còn ở tình trạng bộ lạc, di chuyển từ vùng đất này đến vùng đất khác
để sống còn, thì chưa có sự xuất hiện của những quân nhân đúng nghĩa. Vào giai
đoạn đó, tất cả mọi người, phần lớn là nam nhân, có khả năng săn bắn, hoặc bảo
vệ sự an toàn của tập thể, đều phải thi hành nhiệm vụ của mình như một phần của
bản năng sinh tồn tập thể. Không một ai có thể coi là môt quân nhân chuyên
nghiệp cả.
Tuy nhiên, khi các bộ lạc lớn mạnh, kết hợp với nhau hoặc bị chinh phục
và kết hợp thành những tập thể lớn hơn, sau đó định cư và ấn định cương thổ,
kinh tế, văn hóa phát triển và ý thức về quốc gia dân tộc hình thành, thì nhu
cầu của những người lính hoặc quân nhân chuyên nghiệp, trong một cấu trúc quân
đội quốc gia, được hình thành.
Lúc đầu có thể là những quân nhân bán thời. Tức thời bình họ là những
nông dân, thợ thuyền, buôn bán hoặc thuộc giới quý tộc, quan quyền. Trong thời
chiến họ có thể trở thành những chiến sĩ vì đã được huấn luyện. Sau đó, quân
đội như một định chế quốc gia phát triển hơn. Những quân nhân trở thành chuyên
nghiệp và thi hành nhiệm vụ toàn thời. Họ được trả lương và huấn luyện chuyên
nghiệp gắt gao hơn.
Sự khác biệt căn bản giữa một quân nhân và một thường dân là một quân
nhân phải được định nghĩa như là một thành phần trong một tập thể quân đội.
Người quân nhân cũng được huấn luyện để sử dụng các vũ khí có tính sát địch.
Tập thể quân đội cũng vì thế trở nên một vũ khí có tiềm năng áp đảo mọi đối
thủ. Từ đó, quân đội trở thành một phương tiện thể hiện quyền lực tuyệt vời.
Trong thời đại phong kiến, các vị lãnh chúa hùng cứ một phương, hoặc xưng bá
một góc trời, các vị đế vương chinh phục thiên hạ, sáng lập triều đại, các đế
quốc từ Đông sang Tây, nới rộng biên cương, thống trị một phần nhân loại, đều
dựa vào sức mạnh quân đội.
Lãnh tụ Cộng Sản Trung Quốc Mao Trạch Đông tuyên bố công khai:
“Quyền lực chính trị phát xuất từ nòng súng”.
Sử dụng nòng súng (tức quân
đội) như một công cụ hay tay sai để củng cố và bảo vệ quyền lực đảng phái hay phe
nhóm, thay vì phụng sự cho quốc gia dân tộc hay tổ quốc, theo khuynh hướng của
các chế độ cộng sản, là nguyên nhân các tập thể quân đội cộng sản trở nên những
chướng ngại lớn lao cho tiến trình dân chủ hóa.
Trong các quốc gia dân chủ chân chính, ý niệm về những quân nhân và
quân đội chuyên nghiệp luôn gắng liền với ý niệm quốc gia dân tộc. Chính vì thế
trung thành với tổ quốc phải luôn luôn là trách nhiệm tiên quyết của tất cả mọi
quân nhân.
(3). Tương quan nghiêm chỉnh giữa
người quân nhân và chính quyền dân sự trong một nền dân chủ hiến định, pháp trị
và đa nguyên chân chính:
Lịch sử nhân loại phát triển qua nhiều giai đoạn và vai trò của quân
đội cũng thay đổi theo từng giai đoạn.
a.
Giai đoạn bộ lạc:
Chúng ta không cần nhắc tới giai đoạn bộ lạc vì lúc đó quân đội chuyên
nghiệp chưa hình thành. Tuy nhiên vào giai đoạn phong kiến (feudalism) thì quân
đội có khuynh hướng trung thành với những lãnh chúa hoặc vương tử lãnh đạo các
tiểu quốc chư hầu, trong khi ý niệm quốc gia, dưới sự lãnh đạo của một thiên tử
từ xa chưa mạnh, và ái quốc còn là một ý niệm xa vời.
b.
Giai đoạn quân chủ chuyên
chế:
Sau đó, vào giai đoạn quân chủ chuyên chế (absolute monarchy), như Tần
Thủy Hoàng tại Trung Hoa (259-210 TCN), Alexander the Great tại Hy Lạp (356-323
TCN) và Caesar Augustus tại đế quốc La Mã (27 TCN-14 CN), thì quân đội trên
nguyên tắc trung thành với quốc gia, nhưng trên thực tế tuyệt đối trung thành
với đế chế và cá nhân hoàng đế.
c.
Giai đoạn dân chủ:
Khi nhân loại bước vào giai đoạn dân chủ (democracy) hiến định, pháp
trị và đa nguyên thì vai trò của quân đội cũng thay đổi theo.
Trước hết, hầu như tất cả mọi hiến pháp dân chủ đều hiến định hóa vai
trò của quân đội và đặt quân đội dưới quyền một nguyên thủ quốc gia, hoặc một
chính quyền dân sự.
Sau đó, quân đội như một định chế, hoặc cá nhân người lính, đều phải
sinh hoạt trong vòng kềm tỏa của luật pháp. Tuy có thể có những tòa án quân sự
vì tính chuyên môn khi các quân nhân vi phạm quân kỷ hoặc pháp luật, nhưng các
tòa án này vẫn chịu sự giám sát của một Tối Cao Pháp Viện dân sự, và những quân
nhân can án hình sự vẫn chịu sự chế tài như tất cả những công dân khác.
Tiếp theo, vì yếu tính đa nguyên của môi trường chính trị, quân đội
không không những không cần, mà thực ra không được phép trung thành với bất cứ
một triều đại, đảng phái, hoặc phe nhóm nào. Bất cứ cá nhân, chính đảng, phe
nhóm nào, được người dân tín nhiệm, trong một cuộc bầu cử công khai và công
bằng, đều được nắm quyền. Tập thể quân đội luôn tôn trọng quyết định của người
dân. Quân đội chỉ trung thành với tổ quốc và bảo vệ hiến pháp. Họ sẽ chấp hành
mệnh lệnh của bất cứ chính quyền hợp hiến nào.
d.
Vai trò của người quân
nhân chân chính trong giai đoạn chuyển tiếp dân chủ:
Nhìn lại lịch sử nhân loại, giai đoạn chuyển tiếp từ đế quyền chuyên
chế (absolute monarchy) sang giai đoạn dân chủ (democracy) là thời điểm hàm
chứa nhiều thử thách nhất cho các quân nhân. Trong giai đoạn này, sự tỉnh trí,
tự chế và liêm chính con tim của người quân nhân sẽ quyết định vận mệnh của cả
dân tộc. Giai đoạn chuyển tiếp từ một chế độ độc tài theo mô hình Phát Xít
(fascism), hoặc Quốc Xã (National socialism), hoặc Cộng Sản (communism), hoặc
giáo phiệt (religious fundamentalism) sang dân chủ (democracy) cũng hàm chứa
nhiều thử thách tương tự. Lý do chính là vì các hình thức chuyên chế, tuy phản
dân chủ, nhưng tương đối ổn định bề mặt (prima facie stability). Giai đoạn
chuyển tiếp sang dân chủ hàm chứa khả năng đem lại nhiều sự bất ổn chính trị và
xã hội. Các tướng lãnh có tham vọng luôn viện cớ nhu cầu ổn định xã hội hầu đảo
chánh và cướp chính quyền.
Lịch sử cho chúng ta hằng trăm bài học cho giai đoạn này. Tuy nhiên dân
tộc Việt chúng ta có thể học hỏi nhiều khi so sánh các hiện tượng lịch sử sau
đây:
-
Trường hợp thứ nhất xảy ra
tại Hoa Kỳ:
Liên quân các tiểu bang chống đế quốc Anh, lúc đó bị đế quyền cai trị
như những thuộc địa, dưới sự thống lãnh của Tướng George Washington, trong cuộc
chiến giành độc lập (1775-1783), đã chiến thắng quân viễn chinh của Đế Quốc
Anh. Tướng George Washington lúc đó, nếu nhiều tham vọng, có thể cướp chính
quyền và thậm chí thành lập đế chế, sau đó lên ngôi hoàng đế như Viên Thế Khải
tại Trung Hoa sau cuộc cách mạng 1911 của Tôn Dật Tiên. Tuy nhiên vị tướng khả
kính này đã biết tự chế. Ông được mọi phe phái và toàn dân ủng hộ làm tổng
thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Ông cũng chỉ chấp nhận làm tổng thống 2 nhiệm kỳ mà
thôi. Hiến pháp dân chủ thành văn đầu tiên của nhân loại là hiến pháp Hoa Kỳ
được hợp thức hóa năm 1788 và có hiệu lực năm 1789. Hiến pháp này hiến định hóa
nhiều quan điểm quan trọng của các tư tưởng gia Âu Châu, đặc biệt là
Montesquieu với quan điểm tam quyền phân lập. Hiến pháp này cũng phân biệt ranh
giới giữa thế quyền và giáo quyền (separation between church and state) và đặt
quân đội dưới quyền điều khiển của chính quyền dân sự.
-
Trường hợp cuộc cách mạng
Pháp 1789:
Trong khi đó, tại vùng đất khai sinh quan điểm tam quyền phân lập của
Montesqieu là Pháp Quốc, thì cuộc cách mạng 1789, tuy khởi đầu với nhiều bạo
động, máu và nước mắt, nhưng hàm chứa những tư tưởng dân chủ khai phóng nhất,
đã bị quân đội, dưới sự lãnh đạo của vị tướng lãnh và thiên tài quân sự
Napoleon (Nã Phá Luân) thanh toán, hầu tái thiết đế quyền dưới sự thống lãnh
của ông. Có thể nói rằng Napoleon là vị tướng đứng lên đảo chánh và cướp chính
quyền tiêu biểu của lịch sử cận kim. Quân đội vốn là một công cụ quyền lực
tuyệt vời, và tự cổ chí kim nhiều tướng lãnh không cưỡng nổi sự cám dỗ của nó.
Kết quả là Âu Châu chìm trong khói lửa (1799-1815) và dân chủ đến với dân tộc
Pháp chậm trễ hơn Hoa Kỳ nhiều thập niên sau đó (1848).
Cựu tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson, trong bài diễn văn nhậm chức
năm 1801 tuyên bố như sau:
“Chính quyền dân sự tuyệt đối điều hành quân đội và tôi xem đây chính
là một trong những nguyên tắc căn bản của chính quyền chúng ta...”
(“The supremacy of the civil over the military authority I deem [one
of] the essential principles of our Government...”)
Quan điểm trên của Thomas Jefferson tóm lược toàn diện vị trí của quân
đội và các quân nhân, trong môi trường một nền dân chủ chân chính.
- Cuộc cách mạng Bolshevik 1917 tại Nga:
Một nhân vật lịch sử quan trọng là Vadimir Illitch Lê Nin học hỏi rất
nhiều từ bài học của cuộc cách mạng Pháp, nhất là vai trò của quân đội. Tuy
nhiên giải pháp về vai trò quân đội của Lê Nin còn trì hoản tiến trình chuyển
tiếp từ độc tài chuyên chế sang dân chủ hơn những cuộc đảo chánh của quân đội
rất nhiều. Quân đội Liên Bang Xô Viết bị đảng CSLX khống chế toàn diện và chỉ
trung thành với đảng. Thật vậy, một trong những ý niệm chỉ đạo của chủ thuyết
Mác Lê là quan điểm chuyên chính vô sản (dictatorship of the proletariat). Lập
luận của Lê Nin là: vì đảng đại diện cho giai cấp vô sản, nên đảng trở thành
định chế chuyên chính duy nhất, không phải là quân đội. Cũng theo lập luận của
Lê Nin thì, nếu đảng là chuyên chính (tức độc tài) thì trong tương quan giữa
đảng và quân đội, đảng phải là cứu cánh và quân đội chỉ là phương tiện. Cái khó
của Lê Nin là: nếu quân đội là sức mạnh thuần túy và bạo lực thuần túy qua lịch
sử loài người, thì lực lượng nào có thể kiểm soát quân đội?
Giải pháp của Lê Nin là: công
an mật vụ là lực lượng duy nhất có thể khống chế quân đội.
Lý do là vì các quân nhân chuyên nghiệp, tuy là thành phần của một tập
thể có nhiều quyền lực, nhưng quyền lực của họ chỉ phát huy tột đỉnh trên chiến
trường, có chiến thuật chiến lược. Trong những hành lang tối tăm của chính trị,
họ không thể đối phó với công an mật vụ, vốn là những sát thủ chuyên nghiệp và
phi nguyên tắc. Lê Nin ý thức triệt để yếu điểm này và xây dựng một hệ thống
công an mật vụ khổng lồ, một mặt đàn áp và tiêu diệt mọi đối lập chính trị, mặt
khác kiểm soát quân đội tuyệt đối. Hầu kiểm soát tuyệt đối, đảng CSLX có một
đội ngũ chính ủy, theo sát các tướng lãnh và các đơn vị trưởng của Hồng Quân Liên
Xô. Bất cứ tướng lãnh hoặc sĩ quan quân đội nào bị nghi ngờ, đều bị báo cáo và
công an mật vụ sẽ thanh toán một cách dã man chớp nhoáng.
Đảng CSVN được tổ chức theo mô hình của Liên Xô, chính vì thế những kẻ
nắm công an mật vụ như Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, thủa sinh tiền, mặc dù vai vế và uy
tín kém xa Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, vẫn dư thừa khả năng hạ nhục vị tướng này
không chút nương tay.
e.
Trách nhiệm dân chủ hóa
đất nước cao cả của những quân nhân Việt Nam trong thế kỷ 21 là gì?
Thế kỷ 21, ngoài là kỷ nguyên của tin học, còn là kỷ nguyên của sự
thăng hoa tuyệt đỉnh cho quan điểm dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên.
Lịch sử đã chứng minh rằng nếu quan điểm dân chủ là cứu cánh của một
dân tộc thì giai đoạn chuyển tiếp sang chế độ dân chủ, từ một chế độ cộng sản,
nhiều chông gai và trở lực hơn từ một chế độ quân phiệt rất nhiều.
Nếu chúng ta coi đế chế của Napoleon như một chế độ mang bản chất quân
phiệt, thì khoảng 50 năm sau cuộc cách mạng Pháp (1789), nước Pháp bắt đầu có
dân chủ (1848). Nam Hàn, Đài Loan, Nam Dương, Thái Lan, Miến Điện và nhiều quốc
gia Trung Đông hoặc Bắc Phi cũng mất những khoảng thời gian tương tự trước khi
đạt đến dân chủ chân chính.
Tuy nhiên sự chuyển tiếp từ một chế độ cộng sản sang dân chủ gặp nhiều
trở lực hơn. Tại Nga và Liên Bang Xô Viết cũ, phải mất 70 năm cộng sản chủ
nghĩa mới sụp đổ. Tuy nhiên, chế độ chính trị bây giờ tại Nga chưa là một chế
độ dân chủ thực sự. Chỉ có thể gọi chế độ này là một chế độ chuyển tiếp sang
thể chế dân chủ tương lai mà thôi. Muốn đạt đến dân chủ thực sự như tại Tây Âu,
có lẽ Nga Sô cần khoảng 10 đến 20 năm nữa.
Trung Quốc và Việt Nam hiện giờ vẫn là CS chuyên chính và chưa có dấu
hiệu chuyển tiếp sang dân chủ. Các chính quyền CS liên hệ trở thành những định
chế quyền lực bảo thủ lớn lao. Trừ khi bị quần chúng đứng lên lật đổ, không hề
có xác xuất có những cải tổ dân chủ chân chính. Bắc Hàn cho tới ngày hôm nay
vẫn là một chế độ CS theo truyền thống hà khắc của Stalin. Tại các nước Đông
Âu, từ khi bị Hồng Quân Liên Xô thanh toán năm 1945 đến thập niên 90, đã có
những bước tiến dân chủ thực sự. Mông Cổ cũng tương tự.
Một trong những nguyên nhân tiến trình dân chủ hóa đến chậm với các
quốc gia CS là vì sự kiểm soát quân đội chặc chẽ qua hệ thống công an mật vụ.
Chính vì thế, trách nhiệm quan trọng của người quân nhân là ý thức về
vai trò cao quý của mình đối với tổ quốc. Đó là chỉ trung thành và bảo vệ tổ
quốc, không cần và không được phép trung thành hoặc bảo vệ bất cứ một tập thể
hoặc cá nhân nào.
Trách nhiệm của tất cả mọi quân nhân, nhất là những quân nhân VN ngày
hôm nay, không những là trung thành với tổ quốc, mà còn phải tích cực đứng về
phía dân tộc, đối lập với mọi hình thức độc tài và mãi quốc cầu vinh.
Một sự chuyển biến nội tâm
hùng mạnh, trong tâm thức của các người quân nhân VN ngày hôm nay, đứng hẳn về
phía dân tộc, như các quân nhân Hoa Kỳ, Anh Quốc, Âu Châu, Úc Đại Lợi, sẽ gia
tốc tiến trình dân chủ hóa đất nước và những người quân nhân chân chính sẽ có
địa vị tôn quý trong một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên của một
nước Việt Nam tương lai.
Người quân nhân, trong giai đoạn chuyển tiếp sang một chế độ dân
chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên,
còn có trách nhiệm ổn định trị an xã hội, hầu tiến trình dân chủ hóa có thể
được hoàn tất trong thời gian ngắn nhất và không đổ máu của đồng bào.
Muốn như thế, lòng ái quốc, quyết tâm đập tan mọi định chế độc tài, tôn
trọng những giá trị dân chủ và nhân quyền nền tảng, trí tuệ và sự tự chế bản
thân, phải là những hành trang quý báu nhất của người quân nhân Việt Nam chân
chính của tương lai.
I.
Đề nghị cải tổ hệ thống
quân đội:
Việt Nam không phải là một nước nhỏ và sẽ không mãi mãi là một quốc gia
nhược tiểu. Vị trí của đất nước trong môi trường địa chính trị toàn cầu rất hệ
trọng cho hòa bình và an ninh thế giới. Chúng ta phải xây dựng một lực lượng
quân sự hùng mạnh vào bậc nhất thế giới, hầu bảo vệ tổ quốc và cảnh cáo tất cả
những kẻ thù tiềm năng của dân tộc. Ngoài ra, chúng ta còn là một dân tộc văn
hiến sẵn sàng hòa minh vào những bảng giá trị nhân bản của thời đại. Chính vì
thế chúng ta sẽ cải tổ hệ thống quân đội như sau:
1.
Trên bình diện chiến lược,
ngân sách quốc phòng phải tăng đáng kể:
Khi chúng ta duyệt xét ngân sách quốc phòng của những quốc gia phải đối
diện với những kẻ thù bá quyền như Đài Loan và Poland, chúng ta nhận thấy ngay
rằng Đài Loan chi khoảng 2,1% ($18,9 tỷ) ngân sách cho quốc phòng và Balan
khoảng 2,37% ($15,1) năm 2022. Trong khi đó Việt Nam chi khoảng 2% và các con
số thay đổi tùy theo nguồn từ $6.4 đến $7.8 tỷ. Sự sai biệt lớn lao giữa Việt
Nam và Đài Loan cũng như Poland là vì sự yếu kém về kinh tế. Chính vì thế,
trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta phải tăng ngân sách quân sự lên đến 4% ngân
sách và khi nền kinh tế quốc gia phát triển ngang bằng Đài Loan và Poland, thì
vẫn giữ ở mức tối thiểu là 3% vì vị thế địa chính trị đặc thù của Việt Nam.
2.
Trên bình diện binh pháp:
Chiến tranh nhân dân và du kích chiến theo binh pháp Mao Trạch Đông
không còn áp dụng thực tế cho thời đại mới. Quân đội chúng ta trong tương lai
phải buông bỏ binh pháp Mao Trạch Đông và học hỏi binh pháp hiện đại từ Hoa Kỳ,
nhất là binh pháp của Hoa Kỳ đã được ứng dụng thực tế tại các quốc gia đang đối
đầu với TQ như Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan.
3.
Hiện đại hóa Hải Lục Không
Quân:
Công tác hiện đại hóa phải chú trọng vào các vũ khí phẩm chất cao của
Hoa Kỳ và các nước tây phương, từng bước đào thải vũ khí của Nga và TQ vì phẩm
chất kém. Thêm vào đó, phải xây dựng một lực lượng quân sự hùng mạnh, bao gồm
cả tàu sân bay hầu để có thể tuần tra trên vùng biển mệnh mông của đất nước,
cảnh báo răn đe tất cả những kẻ có dã tâm bá quyền đối với chúng ta. Dĩ nhiên
kỷ nghệ quốc phòng và sản xuất vũ khí nội tại của quốc gia cần phải được phát
huy tột đỉnh, theo gương của Nam Hàn.
4.
Phân biệt giữa quốc phòng
và trị an:
Trong một nền dân chủ chân chính, chúng ta phải phân biệt biên giới
giữa trách nhiệm quốc phòng và trách nhiệm trị an xã hội. Cả 2 trách nhiệm đều
cao cả và quan trọng như nhau. Tuy nhiên mỗi trọng trách đáp ứng một nhu cầu
khác nhau của tổ quốc. Một sắc luật quốc phòng mới chiếu theo tân hiến pháp
(Chẳng hạn Điều 37 (2) về thẩm quyền quốc phòng của chính quyền trung ương của
mẫu hiến pháp theo Phụ Đính “A” của sách lược này), sẽ minh thị trao cho quân
đội, và chỉ có quân đội mà thôi, nhiệm vụ cao cả là bảo vệ tổ quốc, chống ngoại
xâm. Quân đội sẽ giữ vai trò cao cả này, vượt lên trên mọi tranh chấp ý thức hệ
và chính trị, sẽ là một quân đội chuyên nghiệp, hiện đại và tuân thủ mệnh lệnh
từ một vị tổng tư lệnh dân cử như tổng thống trong những quốc gia dân chủ chân
chính.
5.
Đứng về phía nhân dân và
chống lại mọi hình thức độc tài:
Luật pháp sẽ minh thị quy định cho cá nhân các quân nhân cũng như tập
thể quân đội trong một nước Việt Nam dân chủ tương lai là: ngoài sự dũng cảm
trên chiến trường để bảo vệ tổ quốc, người quân nhân còn có trách nhiệm quan
trọng hơn là: sống và thể hiện trong mọi
tình huống những giá trị nhân bản cốt lõi của dân tộc Việt. Đó chính là chặn
đứng độc tài, đứng về phía nhân dân, trân trọng sinh mạng và nhân phẩm của từng
cá nhân con dân nước Việt.
6.
Đạo đức của quân nhân:
Nhu cầu của một quy chế về đạo đức và nguyên tắc hành xử (code of moral
and ethical conduct) cho những quân nhân sẽ được ban hành và luật hóa. Trong những chế độ độc tài độc đảng, sự tham
ô và thối nát trong các định chế rường cột là không tránh khỏi. Hệ thống quân
đội VN cũng thế. Sự tham nhũng tràn lan trong quân đội CSTQ nhất là trong lực
lượng phi đạn vô cùng quan trọng để xâm chiếm Đài Loan (các phi đạn chứa đầy
nước thay vì nhiên liệu) theo TTX Bloomberg, dĩ nhiên cũng hiện diện tương tự tại
VN, làm suy yếu tiềm năng quốc phòng. Những quân nhân chân chính luôn hoan hỉ
chấp nhận quy chế này.
7.
Cải tổ hệ thống Tòa Án
Quân Sự:
Hệ thống tòa án quân sự sẽ được cải tổ theo các nguyên tắc sau đây:
a. Bản chất của tòa phải là
chuyên nghiệp và phi chính trị.
b. Các thẩm phán không thể là
quân nhân hiện dịch vì không đủ tinh thần độc lập, đi ngược với tinh thần của
HP.
c. Các thẩm phán phải có sự
hiểu biết về quân đội nhưng không lệ thuộc vào quân đội.
d. Quy ước về nguyên tắc hành
xử của quân nhân cập nhật của thời đại sẽ được soạn thảo và được luật hóa.
e. Các quân nhân vi phạm các
tội hình sự trong bộ luật hình sự sẽ bị tuy tố như những người dân bình thường,
tuy nhiên cơ quan tài phán sẽ là tòa quân sự thay vì tòa án bình thường.
f. Ngoài ra quân nhân vi phạm
quân kỷ và những tội liên hệ đến luật quân đội cũng sẽ bị truy tố và cơ quan
tài phán sẽ là tòa quân sự.
g. Các bị cáo hay nguyên cáo
có quyền kháng cáo lên Tối Cao Pháp Viện Hoặc Tòa Án Tối Cao như cơ quan tài
phán chung thẩm.
h. Các tòa án quân sự các cấp
sẽ có 2 loại thẩm quyền chính:
(i)
Thẩm quyền quân kỷ và hình sự: khi các quân nhân vi phạm quân
kỷ và các tội hình luật.
(ii)
Thẩm quyền về các tranh tụng có tính hành chánh như thăng
cấp, sa thải hoặc lương bổng và các phúc lợi khác của quân nhân.