Monday 26 February 2024

 

Vi hiến là gì và tại sao người CSVN thường xuyên vi hiến?

Luật sư Đào Tăng Dực

www.daotangduc.blogspot.com

 

Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp quy định. Hiến Pháp không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn.

Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật.

Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả.

Vi phạm luật pháp gọi là “phạm luật”, vi phạm hiến pháp thì gọi là “vi hiến”. Trong bản chất thì 2 tác động này giống nhau vì các sắc luật hay hiến pháp đều là luật cả. Tuy nhiên thông thường thì phạm luật có thể bị chế tài về hình (criminal) hay hộ (civil), nhưng một tác động hoặc sắc luật vi hiến thì chỉ bị chế tài bằng hình thức tuyên bố là vô hiệu lực mà thôi.

Khi chúng ta nhận thức về một điều khoản của hiến pháp thì chúng ta có thể nhận thức từ 2 góc cạnh. Một là “văn tự” của hiến pháp và hai là “tinh thần” của hiến pháp.

Tuân thủ văn tự của hiến pháp có nghĩa là “lời văn” như thế nào thì phải tuân thủ như vậy. Tuân thủ tinh thần của hiến pháp có nghĩa là tuân thủ theo “ý định” hay “mục đích” của hiến pháp.

Khi bàn về luật hiến pháp, nhiều khi tuân thủ văn tự của hiến pháp thì lại vi hiến và ngược lại. Dĩ nhiên, khi vi phạm cả văn tự lẫn tinh thần của HP thì xác xuất bị kết án là vi hiến sẽ rất cao.

Ngoài ra, các điều khoản của hiến pháp đôi khi là những mệnh lệnh cần phải tuân thủ và thực thi. Không thực thi một mệnh lệnh của hiến pháp trong một thời gian hợp lý (within reasonable time), tức sự vắng bóng một tác động (absence of action) không có nghĩa là chúng ta sẽ tránh được tội. Đôi khi không thực thi một điều khoản có tính mệnh lệnh của hiến pháp, cũng là vi hiến. Chẳng hạn đoạn 2 Điều 119 quy định như một mệnh lệnh “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định.” Tuy nhiên cho đến bây giờ, hơn 10 năm sau, người CSVN vẫn chưa có động thái nào để ra luật thành lập cơ chế này.

Thêm vào đó Điều 25 HP quy định:

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”

Tuy nhiên cho đến bây giờ quốc hội vẫn chưa thông qua luật biểu tình.

Chính vì thế cần phải có một định chế hoàn toàn độc lập, như Tối Cao Pháp Viện của Hoa Kỳ hoặc Hội Đồng Hiến Pháp của nước Pháp, hầu tài phán chung quyết về tính hợp hiến hoặc vi hiến, tùy theo mỗi trường hợp cá thể.

Một cách tổng quát, có các hình thức vi hiến sau đây:

1.    Vi phạm tinh thần của HP.

2.    Vi phạm lời văn của HP

3.    Vi phạm cả tinh thần lẫn lời văn của HP

4.    Không thi hành một mệnh lệnh trong HP

Người CSVN luôn hô hào ầm ỹ trong quần chúng:

-         Làm theo hiến pháp và luật pháp

-         Tuy nhiên CSVN vi phạm HP và LP nhiều nhất.

Tại sao?

1.    Họ nghĩ như TBT Nguyễn Phú Trọng rằng Điều Lệ Đảng ưu thắng và cao hơn HP và HP thật sự chẳng quan trọng.

2.    Hàng ngũ đảng viên, kể cả cấp cao của họ thiếu hiểu biết về HP và LP vì họ chưa bao giờ sinh hoạt trong một môi trường pháp trị chân chính, họ chỉ hiểu chế độ đảng trị và tuân lệnh của đảng CSVN mà thôi.

3.    Họ cố tình không hiến định hóa một định chế hoàn toàn độc lập hầu tài phán về tính vi hiến hay hợp hiến của một sắc luật của lập pháp hoặc một tác động của hành pháp như Tối Cao Pháp Viện (Supreme Court) của Hoa Kỳ hoặc Hội Đồng Hiến Pháp (Conseil Constitutionel) của nước Pháp.

4.    Họ quy định trong hiến pháp tại đoạn 1 Điều 119 rằng “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.” Nhưng họ cố tình không quy định phương thức xử lý là gì trong HP lẫn trong một sắc luật nào.

5.    Sau mỗi điều khoản quy định một nhân quyền (ví dụ quyền phê bình nhà nước, quyền bầu cử) hay quyền tự do (ví dụ quyền tự do ngôn luận) của công dân trong HP, họ sử dụng câu thòng thông thường trong các bản hiến pháp, như “theo quy định của luật pháp” và sau đó họ ra những sắc luật ngang nhiên phủ nhận hay vi phạm điều khoản liên hệ.

6.    Họ tư duy theo tinh thần “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Quyền lợi đảng là cứu cánh, HP và LP chỉ là phương tiện, chỉ cần tuân thủ khi phù hợp với quyền lợi đảng. Nếu không hợp với quyền lợi đảng, họ có thể vi phạm tự nhiên.

7.    Họ quan niệm rằng, nhân dân rất ngu si và không hiểu gì về HP và LP, họ có thể qua mắt và lường gạt mà không có hậu quả lớn lao gì.

8.    Họ cố tình gài trong HP những khái niệm xung đột lẫn nhau, chẳng hạn một mặt khắc ghi nhân quyền, mặt khác cướp đi nhân quyền; hoặc một mặt thì hiến định hóa địa phương phân quyền và mặt khác lại hiến định hóa khái niệm “tập trung dân chủ” để hủy diệt “địa phương phân quyền”.

9.    Họ thường xuyên đánh cắp và sau đó đánh tráo khái niệm: pháp trị biến thành pháp chế xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ cộng hòa trở thành cộng hòa xã hội chủ nghĩa, tổ quốc trở thành tổ quốc xã hội chủ nghĩa, quân đội trung thành với tổ quốc trở thành trung thành với cả đảng CSVN.

Cứ như thế người CSVN thoải mái vi hiến liên tục và thường xuyên.

Saturday 17 February 2024

 

Hiến pháp 2013 quy định Việt Nam theo chế độ chính trị nào?

LS Đào Tăng Dực

www.daotangduc.blogspot.com

I. Dẫn nhập:

Thông thường hiến pháp của một quốc gia dân chủ chân chính quy định rất rõ chế độ chính trị của quốc gia đó, ngoại trừ các chế độ độc tài.

Trong trường hợp các quốc gia dân chủ thì câu trả lời rất đơn giản và trong sáng.

Chẳng hạn Hiến Pháp của Hoa Kỳ, Brasil, Argentina, Indonesia quy định rằng họ theo mô hình tổng thống chế. Các quốc gia như Canada, Úc Đại Lợi, Anh Quốc, Tân Tây Lan theo mô hình Quốc Hội Chế.

Các quốc gia như Pháp, Nam Hàn, Đài Loan, Ukraine theo một mô hình hỗn hợp giữa quốc hội chế và tổng thống chế.

Tuy nhiên trong trường hợp các chế độ độc tài, thì câu trả lời rất phức tạp. Lý do là chế độc độc tài nào cũng “làm ra vẻ” dân chủ cả. Phương pháp chung của các chế độ độc tài là sử dụng một mô hình dân chủ, nhưng “làm bẩn” hay “làm ô uế” mô hình này, bằng một số thủ thuật “ma giáo” nhằm các mục đích sau đây:

1. Bên trong, nắm giữa độc quyền chính trị tuyệt đối và vĩnh viễn

2. Bên ngoài, biện minh với quốc tế rằng mình là một chế độ dân chủ khả kính

Như vậy trước khi phân tích các chế độ độc tài thì chúng ta phải am hiểu các mô hình chính trị dân chủ, và sau đó, tìm hiểu các chế độ độc tài sử dụng các thủ thuật nào, hầu làm bẩn hay làm ô uế các mô hình dân chủ chân chính.

II. Nhận diện các chế độ Dân chủ khác nhau:

Như vậy, có bao nhiêu mô hình chế độ dân chủ chân chính,

Câu trả lời là có 2 mô hình chính và một mô hình phụ.

Hai mô hình chính là:

1. Quốc hội chế khi quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao (supremacy of parliament) và

2. Tổng thống chế với tam quyền phân lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp).

Mô hình phụ là hỗn hợp giữa tổng thống chế và quốc hội chế.

A. Quốc hội chế (còn gọi là Nội Các chế hoặc Đại Nghị chế) (Parliamentary democracy) có những yếu tính sau đây:

1. Có quốc trưởng hoặc vua nhưng chỉ là biểu tượng, không có thực quyền chính trị (khi có vua thì còn gọi là quân chủ lập hiến)

2. Thủ tướng có thực quyền chính trị

3. Chỉ có nhị quyền phân lập (một bên là Quốc Hội và nội các, bên kia là tư pháp độc lập)

4. Có đối lập chính thức trong quốc hội (official opposition)

5. Đại diện cho mô hình này là Vương Quốc Thống Nhất Anh (United Kingdom hay Great Britain), Canada, Úc, Tân Tây Lan, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Hòa Lan, Đan Mạch, Bỉ quốc…

B. Tổng thống chế (Presidential democracy, presidential regime)

1. Tổng thống là quốc trưởng và lãnh đạo thực quyền hành pháp, tổng tư lệnh quân lực.

2. Tam quyền phân lập theo mô hình của tư tưởng gia chính trị Montesquieu

3. Có đối lập chính thức trong Quốc Hội (hoặc đơn viện hoặc lưỡng viện)

4. Đại diện cho mô hình này là Hoa Kỳ , các quốc gia châu Mỹ La Tinh (Nam Mỹ Châu), Phi Luật Tân, Indonesia….

C. Các mô hình tổng hợp

a. Dung hòa giữa Tổng thống chế và quốc hội chế

b. Đứng đầu hành pháp có cả tổng thống lẫn thủ tướng

c. Có 2 mô hình theo 2 khuynh hướng khác nhau

(1) Tổng hợp nhưng thiên về tổng thống chế (Pháp, Nam Hàn, Đài Loan, LB Nga, Ukraine…)

i. Tổng thống được bầu trực tiếp và có thực quyền nhất là về quốc phòng và ngoại giao

ii. Là tổng tư lệnh quân lực

iii. Chủ tọa Nội các

iv. Bổ nhiệm thủ tướng

(2) Thiên về quốc hội chế (Đức, Singapore, Ấn Độ)

i. Tổng thống là quốc trưởng nhưng chỉ là biểu tượng

ii. Thủ tướng nắm thực quyền chính trị

iii. Tại Đức thì tổng tư lệnh quân lực thời bình là bộ trưởng quốc phòng còn thời chiến là thủ tướng

III. Việt Nam theo mô hình chính trị nào?

Hay chính xác hơn, câu hỏi phải là, đảng CSVN đã “làm ô uế” mô hình dân chủ nào hầu lừa gạt nhân dân và quốc tế?

Chúng ta sẽ có câu trả lời chính xác khi phân tích bản Hiến Pháp 2013.

A. Việt Nam theo quốc hội chế:

Chương V của HP 2013 về Quốc Hội quy định quyền lực bao trùm của QH và xác định trên nguyên tắc rằng VN theo mô hình chính trị quốc hội chế tương tự với Anh Quốc, Canada, Úc, Tân Tây Lan, Đan Mạch …

Nhất là điều 69 HP quy định:

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

 

Thêm vào đó, đoạn 7 Điều 70 HP chi tiết hóa cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của quốc hội bao trùm như sau:

 

“7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.

Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;”

 

B. CSVN sử dụng các thủ thuật nào để “làm ô uế” mô hình quốc hội chế?

 

Thủ thuật họ sử dụng rất nhiều. Tuy nhiên một số thủ thuật chính sau đây nổi bật:

 

1. Hiến định hóa điều 4 HP hầu độc quyền cai trị qua việc đồng hóa đảng với nhà nước và kiểm soát tuyệt đối xã hội dân sự.

 

2. Thông qua Luật Bầu Cử Đại Biểu Quốc Hội và Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân 2015 và các tiền thân của bộ luật này, quy định Mặt Trận Tổ Quốc (Cơ quan ngoại vi của đảng) quyền chọn ứng cử viên vào quốc hội và các hội đồng nhân dân địa phương. Kết quả là chỉ có đảng viên và một số rất ít cảm tình viên của đảng được quyền ứng cử vào cơ quan quyền lưc tối cao này.

 

3. Sau khi đạt được kết quả khoảng 90% dân biểu quốc hội là đảng viên thì chiếu theo Điều 70, đoạn 7, CSVN bổ nhiệm nào là Chủ Tịch Nước, Thủ Tướng, Chủ Tịch Quốc Hội, Chánh Án Tòa Án Tối Cao Nhân Dân…và kết quả là nhìn thoáng qua thì có cả tam quyền (hành pháp, tư pháp và lập pháp) nhưng trong bản chất không hề có phân lập vì đảng lãnh đạo và phân phối tất cả.

 

C. Tại sao không những đảng CSVN mà hầu như tất cả các đảng CS đều sử dụng mô hình quốc hội chế để thực thi độc tài đảng trị?

 

Muốn trả lời câu hỏi này, chúng ta phải phân tích những ưu và khuyết điểm khác nhau của 2 mô hình dân chủ chính là quốc hội chế và tổng thống chế:

 

1. Ưu và khuyết điểm của quốc hội chế:

a. Ưu điểm là một chế độ dân chủ chân chính

b. Khuyết điểm:

- Không có tam quyền phân lập

- Một cá nhân hay tập thể chỉ cần nắm đa số trong Quốc Hội là thống trị cả lập pháp, hành pháp và có thể cả tư pháp.

- Yếu tố check và balance không đầy đủ bằng tam quyền phân lập

- Đòi hỏi một truyền thống dân chủ sâu dày như Anh Quốc, Úc, Canada , Tân Tây Lan thì dân chủ mới thật sự bền vững.

 

2. Ưu và khuyết điểm của tổng thống chế:

i. Rất ít khuyết điểm. Có chăng là khi cả quốc hội lẫn Tổng Thống cùng một chính đảng thống trị thì có thể chuyên quyền hơn.

ii. Ưu điểm rất nhiều:

- Nhờ tam quyền phân lập rõ rệt nên có checks và balance giữa hành pháp. Lập pháp và tư pháp

- Khi trình độ dân chủ chưa cao thì tổng thống chế có khả năng  giảm thiểu khuynh hướng độc tài hơn

- Trình độ dân chủ càng sâu dày thì chế độ càng ổn định và bền vững

3. Lịch sử chứng minh:

Các chế độ độc tài trên thế giới, nhất là CS, phần lớn phát xuất từ quốc hội chế (CSLX, CSTQ, CSVN, CS Bắc Hàn, Cuba…) Đức Quốc Xã tuy nguyên thủy có tổng thống lẫn thủ tướng (chancellor) nhưng thiên về quốc hội chế và đảng Quốc Xã của Hitler chuyên quyền trong quốc hội.

Các quốc gia trên đà dân chủ hóa theo tổng thống chế lần lược thoát khỏi độc tài tương đối nhanh hơn các quốc gia theo quốc hội chế (các quốc gia châu Mỹ La Tinh, Indonesia, Phi Luật Tân theo tổng thống chế , khi đối chiếu với Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam, Trung Quốc, Singapore, Pakistan, theo quốc hội chế).

Một cách tóm tắc, theo tổng thống chế, ngoài tam quyền phân lập, còn đòi hỏi ít nhất 2 cuộc bầu cử: bầu cử tổng thống (hành pháp) và bầu cử quốc hội (lập pháp).

Trong khi đó, theo quốc hội chế thì ngoài việc không có tam quyền phân lập rồi, thì chỉ cần bầu cử quốc hội (lập pháp). Chính vì thế, các chế độ CS như Việt Nam, TQ, Cuba, Bắc Hàn, Liên Xô …một khi qua những thủ thuật chọn lọc ứng cử viên (phải là đảng viên hay cảm tình viên) thì sẽ nắm trọn đa số trong quốc hội và quyền lực tối cao.

Chỉ cần có đa số trong quốc hội thì toàn thể nhân dân của quốc gia sẽ như baba nằm trong rọ của đảng.

Đó là một lý do quan trọng tại sao các đảng CS yêu mến và bình chọn mô hình quốc hội chế để thi hành độc tài đảng trị.

 

Monday 5 February 2024

 

Nguồn gốc của hiến pháp và tại sao gọi HP là luật nền tảng

LS Đào Tăng Dực

www.daotangduc.blogspot.com

Nhu cầu hiểu biết thêm về hiến pháp:

Muốn lật đổ độc tài CSVN thì phải hủy bỏ HP 2013 và thay thế bằng một bản hiến pháp dân chủ thực sự. Khi nói đến HP của một quốc gia và những khái niệm như hợp hiến hay vi hiến, mọi người đều nghĩ đến những vấn đề trừu tượng hay cao siêu, nằm ngoài khả năng hiểu biết của mình.

Như vậy khi chúng ta nói đến những sai lầm của HP 2013, đại đa số không hiểu chuyện gì.

Kỳ thực, HP không phải là một vấn đề quá phức tạp và nếu chịu khó một chút, ai cũng có thể hiểu.

Như vậy, một cách đơn giản hơn thì hiến pháp là gì?

Một cách đơn giản, hiến pháp trong bản chất chỉ là một giao kèo, hay còn gọi là hợp đồng hay khế ước, giữa thành phần thống trị (chính quyền) và thành phần bị trị (dân chúng), để quy định một trật tự chính trị, mà thôi. Hiến pháp có thể bất thành văn, hay thành văn.

Thông thường, thủa xa xưa trong lịch sử thì bất thành văn và càng gần với thời đại mới thì thành văn. Thêm vào đó, càng xa xưa thì hiến pháp độc tài hơn và thiên về bảo vệ quyền lợi của thành phần thống trị. Càng gần với thời đại mới thì hiến pháp càng dân chủ hơn và thiên về thành phần bị trị. Tuy nhiên, đây không phải là một quy luật tuyệt đối. Trong kỷ nguyên mới của thời đại tin học, vẫn còn những chế độ độc tài, như tại các quốc gia cộng sản, vài quốc gia Phi Châu hay Trung Đông.

HP được gọi là luật nền tảng là vì tuy trong một quốc gia có rất nhiều giao kèo hay khế ước giữa các công dân cá thể, giữa các hữu thể pháp lý khác nhau trong xã hội, nhưng không có khế ước nào quy định một trật tự chính trị, làm nền tảng cho mọi định chế xã hội, cho những nhu cầu tập thể của quốc gia về kinh tế, quốc phòng, ngoại giao và cho mọi sinh hoạt của cả một dân tộc như HP cả.

Thêm vào đó, một quy luật bất biến áp dụng cho HP là tất cả các luật pháp khác, nếu vi phạm HP, đều vô hiệu lực. Chính vì thế HP là một khế ước vượt lên trên tất cả mọi khế ước khác.

 

Như vậy là để có những bản HP như hôm nay, lịch sử đã kinh qua nhiều giai đoạn. Câu hỏi kế tiếp là những mốc điểm nào quan trọng nhất  cho tiến trình hình thành một bản hiến pháp đương đại?

Một cách dễ hiểu thì lịch sử nhân loại kinh qua các mốc điểm về khế ước xã hội nền tảng sau đây:

1.    Sự thống trị của bạo lực:

Đây là giai đoạn Phong Kiến mà tiêu biểu là giai đoạn Trung Cổ tại Âu Châu (500-1500AD) và Đời nhà Chu (kể cả giai đoạn Đông Chu Liệt Quốc) (1046TCN- 256TCN) kéo dài 800 năm tại Trung Quốc. Đây là giai đoạn trước khi chế độ quân chủ chuyên chế lên ngôi. Trong giai đoạn này, cá nhân nào có sức mạnh và huy động đủ bạo lực thì sẽ trở thành kẻ thống trị và kẻ bị trị mặc nhiên chấp nhận trật tự chính trị do kẻ thống trị đưa ra, trong phạm vi lãnh địa của mình kiểm soát. Đây cũng là một kiểu khế ước bất thành văn giữa kẻ bị trị và vị lãnh chúa trong địa phận của mình.

2.    Thiên Mệnh và quân chủ chuyên chế:

Tuy nhiên, mốc điểm thứ nhì là khi ý thức về quốc gia dân tộc hình thành thì một trong những vị lãnh chúa vượt lên trên tất cả những lãnh chúa khác, gồm thâu thiên hạ và xưng vương hay xưng đế, cai trị cả dân tộc. 2 nhân vật lịch sử Đông Tây là Charlemagne tại Âu Châu và Tần Thủy Hoàng tại TQ.

Tại TQ thì tân hoàng đế lập Đại Đàn, cúng tế trời và nhận Thiên Mệnh để chính thức cai trị như con trời (Thiên Tử). Tại Âu Châu thì Tân Hoàng đế cũng được Giáo Hoàng của Giáo Hội Công Giáo chính thức tấn phong, coi như được Thượng Đế ban cho thiên mệnh.

3.    Magna Carta năm 1215 của Anh Quốc hay còn gọi là Đại Ước Chương về các quyền tự do (Great Charter of Freedoms).

 

Trên góc cạnh HP thì đây là HP thành văn đầu tiên của nhân loại. Hoàn cảnh lịch sử là Quốc Vương John của Anh Quốc không được sự thần phục của các lãnh chúa (barons) trong quốc gia và họ đòi truất phế vương vị. Nhà vua phải ký một Khế Ước trao cho họ nhiều quyền lợi như: bảo vệ quyền lợi của giáo hội, các lãnh chúa không thể bị giam cầm bất hợp pháp, thi hành công lý nghiêm minh và giới hạn quyền đánh thuế khóa của vương triều.

Dĩ nhiên vào thời điểm đó, công dân cá thể không có tiếng nói.

Chỉ có 3 thực thể giao kè với nhau: nhà vua, các lãnh chúa và giáo hội mà thôi.

Tuy nhiên văn kiện thành văn này là một mốc thời gian quan trọng và một phần tạo ra nguồn cảm hứng cho HP của Hoa Kỳ (1787)

 

4.    JJ Rousseau viết cuốn Le Contrat Social (Social contract) tức Khế Ước Xã Hội  năm 1762:

Đây là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hình thành HP hiện đại. JJ Rousseau nhấn mạnh rằng trong khế ước này tính tự do (freedom) và tự nguyện (voluntary consent) của các thành phần tham dự khế ước là vô cùng quan trọng. Bạo lực và sự nô lệ không thể đem lại tính chính danh cho một khế ước. Theo ông chính quyền (The sovereign) phải hành xử theo khái niệm “Ý Dân” (Volonte Generale hay General Will) , khác với “Ý của đa số” (Majority Will), “Ý của thiểu số” (Minority Will”, “ Ý của phe nhóm” (Corporate will) hay “Ý cá nhân” (Specific will). Khái niệm General will tuy phức tạp nhưng thực ra đồng nghĩa với khái niệm public good hay common good tức khái niệm công ích, hay quyền lợi quốc gia (National interests). HP của Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng rất nhiều từ JJ Rousseau.

5.    Hiến Pháp Hoa Kỳ được các cha đẻ như Benjamin Franklin, Thomas

Jefferson, James Madison, John Adams chấp bút năm 1787, Các Tiểu Bang Phê Chuẩn năm 1788 và có hiệu lực từ  năm 1789 là một cột mốc quan trọng nữa.

Đây là bản HP thành văn đầy đủ, dân chủ và trở thành mẫu mực cho các HP thành văn của các nền dân chủ hiện đại. Bản HP này cũng lấy nguồn cảm hứng từ các tư tưởng gia thời ánh sáng tại Âu Châu như Thomas Hobbes, JJ Rousseau, Montesquieu, Voltaire như cuộc cách mạng Pháp, nhưng đi trước cuộc cách mạng này (1789-1799).

 

6.    Phiên tòa Marbury vs Madison (1803):

 

Đây là một án lệ vô cùng quan trọng cho luật Hiến Pháp Hoa Kỳ và luật hiến pháp toàn cầu với một nguyên tắc pháp lý quan trọng. Đó là bất cứ sắc luật nào, đi ngược với hiến pháp đề vô hiệu lực. Thẩm phán John Marshall, chủ tịch Tối Cao Pháp Viện chủ tọa phiên tòa và chấp bút quyết định lịch sử này. Đây là một cột mốc quan trọng nữa trong lịch sử luật HP của thời đại. Riêng cho Hoa Kỳ quyết định này cũng quy định quyền duyệt xét pháp lý (judicial review) về hiến pháp của Tối Cao pháp viện lẫn các tòa án LB, và các tòa TB cũng có quyền tương tự trong phạm vi TB của mình.

Quyết định này cũng tái xác định Tư Pháp như là ngang hàng với hành pháp và lập pháp trong hệ thống Tam Quyền Phân Lập của Montesquieu. Trước khi phiên tòa này xảy ra thì Tư Pháp (Tối cao pháp viện) tương đối lép vế so với hành pháp (tổng thống) và Lập Pháp (quốc hội).

 

Câu hỏi quan trọng tiếp theo là: Hiến Pháp 2013 của CSVN cũng là một bản HP của thời đại, tại sao lại phải dẹp bỏ HP này và thay thế bằng một bản HP dân chủ, hiến định, pháp trị và đa nguyên?

Tuy sinh ra trong thời đại tương đối mới, nhưng các chế độ độc tài như Phát Xít, Quốc Xã của Hitler, hay Đôc Tài Giáo Phiệt của Iran, hay độc tài CS thiếu một yếu tố quan trọng trong khế ước ký kết với nhân dân, hoặc nôm na là HP. Đó là yếu tố đồng thuận của kẻ bị cai trị.

Chưa bao giờ có một đảng CS nào có một bản HP thực sự của dân, do dân và vì dân. Chỉ là những bản HP áp đặt trên nhân dân bằng bạo lực và nắm giữ quyền lực bằng bạo lực.

Chính vì thế, tiến trình dân chủ hóa đòi hỏi một trật tự chinh trị mới, thể hiện qua một bản hiến pháp dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên.