Bản chất gian ác
vô giới hạn của Hiến Pháp 2013 của CSVN- Phần 1: Sự gian dối vô giới hạn
Luật sư Đào
Tăng Dực
Thông thường, bản hiếp pháp của một quốc gia thể hiện ý chí của dân tộc.
Một dân tộc không thể gian ác với chính mình.
Như thế tại sao bản Hiến Pháp 2013 có thể gian ác với chính dân tộc Việt
Nam được?
Câu trả lời là: bản Hiếp Pháp 2013 không hề thể hiến ý chí của dân tộc Việt
Nam, mà bị một tập thể độc tài toàn trị, du nhập một ý thức hệ ngoại lai, áp đặt
trên toàn dân, qua những thủ đoạn chính trị rẻ tiền. Tính gian ác vô giới hạn của
tập thể này, tức đảng CSVN, dĩ nhiên thể hiện toàn diện trong Hiến Pháp 2013.
Sự
gian ác đó bao gồm 2 yếu tính tiêu cực. Một là gian dối và hai là hung ác. Tiếng
Anh còn gọi là dishonesty và malevolence. Một mặt thì dùng sự giả dối để gạt gẫm
tha nhân hầu phục vụ cho quyền lợi vị kỷ của mình. Hai là mưu đồ hủy hại hoặc bạo
hành tha nhân hầu thỏa mãn bản năng thú tính của mình.
Trong
lịch sử cận kim của nhân loại, các đảng Phát Xít của Ý và Quốc Xã của Đức, các
đảng CS thuộc hệ phái Đệ Tam Quốc Tế của Liên Xô, Đông Âu, TQ, Bắc Hàn, Cam bốt
và Việt Nam là những ví dụ điển hình.
Trong
cuốc tương tranh ý thức hệ giữa các chính đảng quốc gia, nhất là tại TQ, Việt
Nam và Hàn Quốc thì các đảng phái quốc gia thua cuộc, phần lớn vì, tuy họ đã có
kinh nghiệm đối phó với sự gian dối và tính ác của con người, nhưng họ hoàn
toàn không thể dự đoán được mức độ gian dối và tàn ác vô giới hạn, vượt lên khả
năng bình thường, của những người CS theo trường phái Đệ Tam Quốc Tế của Lê Nin
và Stalin.
TBT
Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm của ông là những kẻ kế thừa chân chính của Lê Nin
và Stalin. Khi họ chấp bút bản Hiến Pháp 2013, kể cả những tiền thân của nó,
thì bản hiến pháp này cũng thể hiện bản chất tàn ác vô giới hạn này.
Một
cách cụ thể hơn, chúng ta sẽ thảo luận tính gian dối và tàn ác của người CS thể
hiện bằng cách nào qua Hiếp Pháp 2013?
Muốn
phê bình tính gian ác của Hiến Pháp 2013 của Việt Nam một cách cụ thể, điều
quan trọng là phải nhận định đâu là những nguyên tắc rường cột của luật hiến
pháp và sử dụng các nguyên tắc này, trong giới hạn nào đó, như là tiêu chuẩn
phân tách.
Điều
này không dễ vì mỗi quốc gia trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới là một
thực thể chính trị cá biệt trong lịch sử, văn hóa và phát triển của mình. Cũng
vì thế, hiến pháp của họ theo những nguyên tắc và thứ tự ưu tiên khác nhau.
Tuy
nhiên, mọi người đều đồng thuận rằng Hiến Pháp của Hoa Kỳ là bản hiến pháp
thành văn đầu tiên của một quốc gia dân chủ. Vì thế, sử dụng những nguyên tắc
căn bản của bản hiến pháp lừng danh này sẽ hữu ích cho chúng ta.
Các
sinh viên chính trị học thông thường ý thức rằng bảy nguyên tắc của Hiến Pháp
Hoa Kỳ có thể phân loại như sau:
A.
4 nguyên tắc định hình thể chế
chính trị gồm:
1.
Thể chế
cộng hòa
2.
Địa
phương phân quyền (tức Thể chế liên bang tại Hoa Kỳ)
3.
Phân quyền
hàng ngang (Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp độc lập)
4.
Kiểm
soát và quân bình (checks and balances)
B.
Tiếp theo là 3 Nguyên tắc giới hạn
phạm vi của chính quyền và bảo vệ xã hội dân sự cũng như công dân cá thể:
1.
Chủ quyền
nhân dân
2.
Chính
quyền giới hạn
3.
Quyền cá
nhân
Không
cần đào sâu ý nghĩa của mỗi nguyên tắc trên, chúng ta cũng nhận ngay rằng
nguyên tắc “thể chế liên bang” có vẻ không áp dụng cho nhiều quốc gia khác, có
một hệ thống đơn quyền (unitary system of government) như Việt Nam, thay vì
liên bang (Federal system), như Hoa Kỳ. Đó là, nếu chúng ta hiểu “thể chế liên
bang” trong nghĩa đen của nó. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu “thể chế liên bang”
trong ý nghĩa mới và nhiều thực chất hơn, như là một hình thức phân tán quyền lực
chính trị (decentralisation of powers) từ trung ương về các thực thể địa
phương, thì “thể chế liên bang” trở nên khả dụng.
Dĩ
nhiên bảy nguyên tắc này chỉ tạm đầy đủ để phân tách một bản Hiến Pháp Việt Nam
và chúng ta sẽ có dịp phân tích đầy đủ hơn trong một dịp khác.
Bây
giờ chúng ta sẽ nhận diện cụ thể hơn nữa các điều khoản nào của HP 2013 là gian
dối hay tàn ác và vi phạm 4 nguyên tắc định hình một thể chế dân chủ theo luật
hiến pháp?
Chúng
ta có thể duyệt xét HP 2013 theo từng tiêu chuẩn nêu trên.
1.
Thể chế cộng hòa:
Một
thể chế cộng hòa chân chính, có thể định nghĩa theo TT Hoa Kỳ Abraham Lincoln
là: của dân, do dân và vì dân.
Tức
là được dân bầu lên trong một cuộc bầu cửa công khai và công bằng và chuyên tâm
phục vụ cho người dân. Nếu không đúng như thế thì người dân có quyền bầu một thực
thể khác để thay thế.
Tuy
nhiên CSVN vì bản chất gian dối cố hữu đã lừa gạt như sau:
-
Một là gắn
cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” vào cụm từ “cộng hòa”, biến thành “cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”
-
Hai là sử
dụng các điều 4HP dành quyền cai trị độc tôn cho đảng CSVN, nhân dân không còn
sự chọn lựa nào khác để thay thế như trong chế độ cộng hòa chân chính.
-
Ba là
qua điều 9 HP, họ hiến định hóa Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ), một mặt kiểm soát xã hội
dân sự cho đảng, mặt khác, thông qua Luật Bầu Cử Đại Biểu Quốc Hội và Hội Đồng
Đại Biểu Nhân Dân, MTTQ được quyền chọn lọc ứng cử viên nào được ra ứng cử hoặc
không được quyền ra ứng cử.
Như
vậy CSVN minh thị treo đầy dê nhưng bán thị chó.
2.
Địa phương phân quyền:
Vì
quyền lực tuyệt đối và tập trung sẽ sinh ra tha hóa và thối nát tuyệt đối nên
các quốc gia dân chủ chân chính luôn có khuynh hướng địa phương phân quyền, tức
trao quyền bầu cử các chính quyền địa phương cho dân địa phương. Đảng cũng gia
vờ có chính quyền địa phương qua Chương IX (Chính quyền Địa phương) từ các điều
110 đến 116.
Tuy
nhiên cái tật treo đầu dê bán thịt chó cũng thể hiện qua các thủ thuật lừa gạt
như sau:
-
Trước hết
Mặt Trận Tổ Quốc cũng có thẩm quyền chọn ứng viên của đảng hoặc tay sai của đảng
quan Luật Bầu Cử Đại Biểu Quốc Hội và Hội Đồng Đại Biểu Nhân Dân
-
Thêm vào
đó Đoạn 1 Điều 8 HP cũng hiến định hóa nguyên tắc Tập Trung Dân Chủ của Phong
Trào Đệ Tam Quốc Tế như là nguyên tắc điều hành quốc gia. Quan điểm tập trung
dân chủ vốn là một nguyên tắc của Lê Nin và một phần của nội quy các đảng cộng
sản thuộc Đệ Tam Quốc Tế, buộc các cơ sở hạ tầng tuân phục các cấp trên.
Chính
vì thế CSVN đã vi phạm tiêu chuẩn này trầm trọng.
3.
Phân quyền hàng ngang (hành pháp,
lập pháp và tư pháp)
Phân
quyền hàng ngang hay còn gọi là Tam Quyền Phân Lập là một yếu tố đặc thù của nền
dân chủ Tổng Thống Chế của Hoa Kỳ theo quan điểm của tư tưởng gia người Pháp là
Montesquieu. Điều cốt yếu là tính độc lập của mỗi quyền từ Hành Pháp, Lập Pháp
đến Tư Pháp.
Dĩ
nhiên HP 2013 vì muốn lừa gạt nhân dân và quốc tế đã hiến định hóa nào là hành
pháp (Các chương VI về CT nước và VII về chính phủ) từ điều 86 đến 101, lập
pháp (Chương V) từ điều 69 đến 85 và tư pháp (Chương VIII về Tòa Án Nhân Dân và
Viện Kiểm Sát Nhân Dân) từ điều 102 đến 109.
Tuy
nhiên sự gian dối lại thể hiện qua các sự kiện sau đây:
-
Trước hết
đảng CSVN chọn mô hình quốc hội chế, thay vì tổng thống chế vì có mưu đồ bất
chính. Trước hết Quốc Hội Chế không có Tam Quyền Phân Lập. Trong một quốc hội
chế dân chủ chân chính như Vương Quốc Thống Nhất Anh, Canada, Úc Đại Lợi, Nhật
Bản, Đức Quốc thì chỉ có nhị quyền phân lập: Quốc Hội tức Lập Pháp là tối cao,
sẽ khai sinh hành pháp. Tuy nhiên khi quốc hội bổ nhiệm tư pháp thì hiến pháp sẽ
bảo đảm sự độc lập tuyệt đối của tư pháp tại các quốc gia dân chủ chân chính
này.
-
Tuy
nhiên trong một thể chế độc tài như Việt Nam thì quốc hội chế lại là phương tiện
tuyệt vời để bao che cho độc tài đảng trị. Chính vì lý do này, các chế độ độc
tài cận kim và hiện tại thông thường theo quốc hội chế: Đức Quốc Xã, LBXV,
CSTQ, CS Bắc Hàn, CSVN.
-
Với quốc hội
chế, đảng CSVN chỉ cần tổ chức một cuộc bầu cử là
Quốc Hội (tức Lập Pháp). Không cần bầu cử Tổng Thống (tức hành pháp). Nhờ có Mặt
Trận Tổ Quốc ít nhất 90% dân biểu đắc cử sẽ là đảng viên và đảng kiểm soát QH
tuyệt đối. Từ đó đảng cấu tạo hành pháp cuội, tư pháp
cuội và qua điều 4HP thiết lập chế độ toàn trị.
4.
Nguyên tắc kiểm soát và quân bình
(checks and balances)
Kiểm
soát và quân bình có nghĩa là cả 3 thực thể hành pháp, lập pháp và tư pháp đều
phải độc lập lẫn nhau và các chính quyền địa phương, trong phạm vi của hiến
pháp, cũng phải có những thực quyền độc lập với trung ương.
Chiếu
theo chương V của HP 2013, đảng tổ chức bầu cử quốc hội (tức lập pháp) đảng cử
dân bầu, với hầu như 100% đại biểu là đảng viên. Đảng cũng lại giả vờ, qua bản HP
cuội, chiếu theo các chương VI và VII bầu lên hành pháp và chương VIII bầu lên
tư pháp.
Tuy
nhiên đảng thật sự thống lãnh cả 3 thực thể (hành pháp, tư pháp và lập pháp) và
hoàn toàn không có tam quyền phân lập.
Tiếp
theo đó, các chính quyền địa phương cũng không hề có thực quyền hiến định đối với
trung ương và trong các Hội Đồng Đại Biểu Nhân Dân Địa Phương cũng chỉ toàn là
đảng viên do Mặt Trận Tổ Quốc chọn lọc. Thêm vào đó nguyên tắc “tập trung dân
chủ” không giống ai đã được hiến định hóa theo điều 8 HP, buộc cấp dưới phải phục
tùng cấp trên vô điều kiện. Làm gì có địa phương phân quyền thực sự hầu kềm chế
lẫn nhau?
Tiếp
theo, câu hỏi nữa là: cụ thể hơn nữa các điều khoản nào của HP 2013 là gian dối
hay tàn ác và vi phạm 3 Nguyên tắc giới hạn phạm vi của chính quyền và bảo vệ
xã hội dân sự cũng như công dân cá thể?
Chúng
ta có thể duyệt xét tại đây HP 2013 theo từng tiêu chuẩn liên hệ.
1.
Chủ quyền nhân dân:
Đây
là lãnh vực đảng CSVN vi phạm trắng trợn và tuyệt đối nhất. Một mặt để lừa gạt
nhân dân và quốc tế, HP 2013 hiến định hóa nhiều quyền công dân được công nhận
trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948 trong chương II về quyền con người
và quyền và nghĩa vụ của công dân (từ các điều 14 đến 49). Mặt khác họ lại thô
bạo tước bỏ mọi nhân quyền và tự do căn bảo qua điều 4 HP, minh thị trao quyền
lãnh đạo chính trị tuyệt đối và vĩnh viễn cho đảng CSVN. Thêm vào đó, thay vì
chỉ lãnh đạo chính quyền, họ còn trao cho đảnh quyền lãnh đạo cả xã hội dân sự.
Từ đó họ thành lập chế độ độc tài toàn trị trên đất nước Việt Nam.
2.
Chính quyền giới hạn:
Chính
quyền giới hạn hay Limited Government là một điều kiện quan trọng trong một bản
HP dân chủ. Trong một nền dân chủ chân chính, luôn có sự quân bình giữa chính
quyền, tức nhà nước (the state) bên này và xã hội dân sự (civil society) bên
kia. Nhà nước là guồng máy chính quyền cai trị quốc gia. Xã hội dân sự gồm các
tập thể từ xã hội, từ thiện, kinh tế, tài chính, tôn giáo trong xã hội và các
cá nhân khác. Chính quyền không giới hạn thì sẽ sinh độc tài. Xã hội dân sự lấn
lướt thì sẽ sinh ra hỗn loạn chính trị.
Theo
HP 2013 thì quyền lực của chính quyền CSVN là vô giới hạn vì các lý do sau đây:
-
Qua điều
4HP, đảng được trao quyền lãnh đạo tuyệt đối và vĩnh viễn cả nhà nước lẫn xã hội
dân sự. Nói như Hitler, đảng và nhà nước là một. Tuy nhiên CSVN còn hơn Hitler
nữa là minh thị xóa bỏ biên giới giữa nhà nước và xã hội dân sự và đảng lãnh đạo
tuyệt đối cả 2.
-
Trong
HP2013, đảng cố tình không hiến định hóa một định chế mà tất cả mọi hiến pháp
dân chủ trên thế giới đều có: đó là một định chế hoàn toàn độc lập để phán quyết
về tính hợp hiến hay vi hiến của một sắc luật của lập pháp, hoặc một tác động của
hành pháp như Tối Cao Pháp Viện tại Hoa Kỳ hoặc Hội Đồng Hiến Pháp (Conseil
Constitutionel) của Pháp.
-
Hậu quả
là đảng có thể đưa ra những sắc luật hoàn toàn vi hiến, nới rộng phạm vi chính
quyền, đàn áp nhân dân và xã hội dân sự mà không hề có giới hạn.
Cũng cần nhắc nhở rằng điều 119 của HP 2013 ghi rõ:
“1.Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.
2.Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định.”
Tuy nhiên đến hôm
nay, tức 10 năm sau khi HP được thành lập, quốc hội bù nhìn vẫn chưa thi hành
trách nhiệm hiến định của mình là ra luật để thành lập “Cơ chế bảo vệ HP” này.
Cũng vì hoàn toàn vắng bóng ý niệm “kiểm soát và quân bình” nên không ai dám chỉ
trích đảng hay chính quyền CSVN về sự tắc trách quan trọng này.
Đó là chưa kể ngay
cả một cơ chế như vậy hoàn toàn thiếu yếu tố độc lập tuyệt đối để phán quyết về
tính hợp hiến hay vi hiến của một sắc luật của Lập Pháp hoặc một tác động nào của
Hành Pháp.
3.
Quyền cá nhân (individual rights)
Đây
có nghĩa là quyền của những công dân cá thể, phần lớn nằm trong Bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền 1948 và các Công Ước Quốc Tế liên hệ.
Cũng
vì bản tính lương lẹo treo đầu dê bán thịt chó của người CSVN, họ hiến định hóa
một số quyền trong chương II về quyền con người và quyền và nghĩa vụ của công
dân (từ các điều 14 đến 49).
Tuy
nhiên, vì vắng bóng một định chế để phán xét về tính vi hiến hay hợp hiến của
các sắc luật của quốc hội hoặc các tác động của chính quyền, nhất là bộ Công An
của Tô Lâm, các nhân quyền của công dân cá thể bị đàn áp tả tơi.
Bô
luật hình sự thì cho phép công an giam giữ người trong gia đoạn điều tra ngoài
sự chịu đựng, tòa án thì xử theo quyết định của đảng hoặc theo trị giá hối lộ
chạy án, luật pháp thì cấm dân chỉ trích chính quyền và nhất là quyền sở hữu
tài sản của cá nhân bị giới hạn nghiêm trọng.
Điều
51 đoạn 1 ghi rõ tuy nền kinh tế VN là kinh tế thị trường nhưng “định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Điều này có nghĩa là các thương nghiệp chính phủ luôn kiểm soát
kinh tế. Thương nghiệp cá nhân bị giới hạn.
Điều
54 quy định rằng, đất đai là của toàn dân, nhưng do nhà nước quản lý. Công dân
cá thể chỉ là những người thuê đất từ chính phủ tức đảng CSVN mà thôi. Trên thực
tế đảng là chủ đất. Công dân cá thể là người thuê đất.
Gian
ý của đảng CSVN là tước đi các nhân quyền căn bản như quyền bầu cử, quyền chỉ
trích chính phủ, quyền tự do cư trú hay đi lại, quyền cạnh tranh với các dịch vụ
nhà nước còn chưa đủ. Họ phải tước đi quyền sở hữu đất đai vốn là chỗ dung thân
của con người. Chỉ khi con người cá thể bất lực, trần truồng và không chốn dung
thân thì độc tài mới thăng hoa và toàn trị.
Như
thế thì đành rằng HP 2013 của CSVN đã vi phạm cả 7 nguyên tắc của một bản HP
dân chủ chân chính, nhưng vẫn còn tồn đọng 2 vấn nạn:
-
Một là 7 nguyên tắc nêu ra vẫn
chưa rốt ráo trong bối cảnh chính trị và văn hóa dân tộc. Vậy thì các nguyên tắc
nào khác cần phải nêu ra?
-
Hai là những lập luận vừa nêu ra
chỉ chứng minh sự gian dối vô giới hạn của họ, vậy thì đâu là sự tàn ác vô giới
hạn của người CSVN qua bản HP oái ăm này?
Bài
đã rất dài. Hai vấn nạn tồn đọng này rất quan trọng và sẽ được lý giải trong một
tài liệu kế tiếp phần 2.