Dự
thảo sách lược đối phó quyết định 1334 của CSVN
Luật
sư Đào Tăng Dực
www.daotangduc.blogspot.com
Quyết định 1334 của chính phủ CSVN được ban hành
ngày 10 tháng 11, 2023 vừa qua, do phó TT Trần Lưu Quang ký thay thủ tướng Phạm
Minh Chính, là văn kiện rõ rệt và chi tiết nhất về sách lược xâm nhập và thao
túng CDNVTDHN của CSVN.
I.
Thực
trạng của Quyết Định 1334
Chúng
ta có thể đọc toàn bộ QĐ này theo link dưới đây của Thư Viện Pháp Luật Việt
Nam:
Quyết
định 1334/QĐ-TTg 2023 Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài
(thuvienphapluat.vn)
Văn kiện này tuy dài, nhưng website nêu trên cũng
đăng tải một văn bản tóm lược như sau:
“Đề án Phát
huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong
tình hình mới
Ngày 10/11/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định 1334/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam
ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới”.
Mục tiêu cụ thể của Đề án Phát huy nguồn lực của người
Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới
- Tăng cường thống nhất nhận thức người Việt Nam ở
nước ngoài là nguồn lực ngày càng quan trọng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng,
phát triển và bảo vệ Tổ quốc, từ đó xây dựng các định hướng, chủ trương, biện
pháp mang tính tổng thể, cơ bản, lâu dài nhằm thu hút và phát huy tối đa nguồn
lực này.
Các bộ, cơ quan, địa phương xây dựng đề án, chương
trình, kế hoạch về thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài.
Thiết lập cơ chế triển khai, phối hợp đồng bộ từ
Trung ương đến cơ sở và trên phạm vi toàn quốc, trong và ngoài nước.
- Tạo môi trường, cơ chế trong nước để người Việt
Nam ở nước ngoài yên tâm gắn bó, phát huy nguồn lực của mình với đất nước.
Xây dựng hành lang pháp lý để người Việt Nam ở nước
ngoài cơ bản được hưởng môi trường pháp lý tương đương với người trong nước khi
tiến hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh, khoa học công nghệ, văn hóa, thể
thao, nhân đạo...
- Tạo khuôn khổ, cơ chế bền vững khuyến khích người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước trên các lĩnh vực phù hợp với
nguồn lực của cộng đồng.
Duy trì đà tăng trưởng của kiều hối; thu hút ngày
càng nhiều vốn đầu tư FDI của người Việt Nam ở nước ngoài; đẩy mạnh phát huy hiệu
quả nguồn lực của trí thức người Việt Nam ở nước ngoài; thúc đẩy chuyển giao
tri thức và kỹ năng; thu hút và sử dụng hiệu quả lực lượng lao động, du học
sinh trở về;
Triển khai hiệu quả các sáng kiến, đóng góp từ thiện,
nhân đạo, xã hội của các cá nhân, tổ chức người Việt Nam ở nước ngoài tại Việt
Nam; phát huy vai trò cầu nối của người Việt Nam ở nước ngoài trên các lĩnh vực
khoa học - công nghệ, kinh tế - thương mại, văn hoá, xã hội...
- Củng cố mạng lưới người Việt Nam ở nước ngoài trên
toàn thế giới. Hoàn thành xây dựng Đề án cơ sở dữ liệu về người Việt Nam ở nước
ngoài. Phấn đấu 100% các địa bàn có đông cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
thành lập được các hội, đoàn.
- Hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát
triển, có vị thế ở sở tại; tăng cường sự gắn kết, giao lưu trong nước giữa người
Việt Nam ở nước ngoài với các tổ chức nhân dân, hội đoàn trong nước.
- Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật, công tác lãnh sự, bảo hộ công dân, thông tin, trao đổi với người Việt
Nam ở nước ngoài, quản lý lao động, du học sinh Việt Nam ở nước ngoài.”
II.
Nguyên
nhân Quyết Định 1334:
Quyết định 1334 không phải là chủ trương mới nhất của
CSVN đối với kiều bào hải ngoại. Tuy nhiên, nó là sách lược chi tiết và rõ rệt
nhất.
QĐ
này phát xuất từ các lý do sau đây:
1.
Các
đảng CS theo khuynh hướng Đệ Tam Quốc Tế của Lê Nin, trong đó có đảng CSVN, đều
có một chủ trương nhất quán. Đó là: Đảng CS là thực thể cứu cánh và tất cả mọi
thực thể khác trong hoàn vũ, trong đó có dân tộc VN và kiều bào hải ngoại, đều
là phương tiện để phục vụ cho Đảng CS Cứu Cánh này.
Tất cả mọi thực thể (phương tiện) này bao gồm:
a. Quốc
tế: các quốc gia trên thế giới bao gồm các dân tộc, các đảng phái chính trị,
tài nguyên, các thực thể thương mại, tài chánh, kỹ nghệ, quốc phòng, các doanh
nghiệp quốc tế, các cá nhân, toàn bộ các chính quyền và xã hội dân sự, mợi hữu
thể tự nhiên hay pháp lý ….
b. Quốc
gia: toàn thể quốc gia Việt Nam bao gồm mọi sắc tộc trong cộng đồng dân tộc,
nhà nước tức guồng máy chính quyền, xã hội dân sự và mọi thành phần trong xã hội
dân sự, tài nguyên quốc gia, sức lao động của mỗi công dân cá thể, mọi hữu thể
tự nhiên hay pháp lý trong quốc gia…
Có nghĩa là, trong trường hợp của Việt Nam thì đảng
CSVN là cứu cánh duy nhất và tối thượng, phần còn lại của hoàn vũ đều là phương
tiện và lý do hiện hữu duy nhất là phục vụ cho sự sống còn, lớn mạnh và thống
trị vĩnh viễn của đảng CSVN.
Trước khi có sự chia rẽ giữa CSTQ và CSLX (1969 đến
cuối thập niên 80) và sự sụp đổ của LBXV (1991) thì các đảng CS anh em còn gắn
bó ý thức hệ, nhưng sau đó thì các đảng CS khác nhau, đều trở thành phương tiện
không khác nào các đảng chính trị quốc gia khác.
Trong
các tài nguyên quốc gia, không có tài nguyên nào quý giá hơn là bàn tay, khối
óc và sự sáng tạo của cải của con người cá thể.
Chính
vì thế, chỉ cần một vài thập niên canh tân cải tổ kinh tế, nhờ không bị CS thống
trị, các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore đã vươn lên
và bắt kịp các nước Tây Phương.
Trong các quốc gia CS Đông Á còn lại thì Bắc Hàn là
bảo thủ nhất nên nghèo khổ. Việt Nam cải tổ hơn một ít nên đỡ khổ hơn. TQ tương
đối cởi mở sớm và nhiều hơn nên phát triển kinh tế nhanh chóng tương đối.
Trừ Bắc Hàn, các đảng CSVN và CSTQ vô cùng may mắn
vì dù chế độ sai lầm, quản trị kinh tế kém cỏi, tham những tràn lan, độc ác với
dân chúng, nhưng bàn tay và khối óc của nhân dân vẫn giúp cho quốc gia khỏi rơi
vào hoàn cảnh ngặt nghèo.
Nếu không có các đảng CS liên hệ thì bây giờ Việt
Nam đã sánh bằng Nam Hàn và Trung Hoa Lục Địa đã sánh bằng đảo quốc Đài Loan.
Khi tình hình địa chính trị tại Đông Á và Đông Nam Á
biến chuyển, Hoa Kỳ và đồng minh ý thức được hiểm họa CSTQ và thực thi sách lược
“tách rời” (decoupling) và sau đó “tránh hiểm” (de-risking) khỏi kinh tế TQ, đồng
thời bao vây địa chính trị quốc gia CS này, thì CSVN nhân thức cơ hội mới bằng
vàng.
Đó là:
Làm
sao sử dụng dân tộc Việt Nam, Hoa Kỳ, các đồng minh của Hoa Kỳ, đảng CSTQ, tư bản
quốc tế như là phương tiện hầu phục vụ cho cứu cánh là đảng CSVN
Một
trong những thành phần quan trọng của dân tộc Việt Nam là khối kiều bào Việt
Nam hải ngoại (Vietnamese Diaspora)
2.
Nguồn
tài tài chánh hầu như vô tận của CĐ hải ngoại:
Theo Wikipedia thì dân số kiều bào VN hải ngoại khoảng
5 triệu người:
Nếu GDP cao như Hoa Kỳ thì $80,412 X 5 triệu sẽ là
$402 tỷ
Nếu GDP thấp hơn Hoa Kỳ như Úc thì $63,487 X 5 triệu
sẽ là $US 317 tỷ
Con số thực tế có lẽ là dân số tại Hoa Kỳ khoảng 2.5
triệu X $80,412 sẽ là $201 tỷ
Phần còn lại của thế giới lấy theo GDP của Canada
2.5 triệu X $53,247 sẽ là $133 tỷ
Cộng lại sẽ là $334 tỷ cho 5 triệu người hải ngoại.
Khi chúng ta so sánh với toàn bộ quốc gia Việt Nam
thì chúng ta nhận xét rằng tuy VN có dân số 100 triệu nhưng GDP đầu người rất
thấp ($4316) nên GDP của toàn quốc gia chỉ ở mức độ $433 tỷ. Đó là chưa kể theo
bình luận gia quốc tế thì các quốc gia độc tài cộng sản có khuynh hướng thổi phồng
GDP của mình, không có đa đảng hoặc hệ thống kiểm soát và quân bình (checks
& balances) nên con số thực sự có thể thấp hơn rất nhiều.
Chính vì thế con số GDP của cộng đồng hải ngoại ở
$334 tỷ là thật, còn con số $433 tỷ của nước VN có thể là giả trá. Vì vậy chúng
ta có thể kết luận rằng, tài nguyên của 5 triệu người Việt hải ngoại hầu như
tương đương với tài nguyên của một nước VN thứ hai vậy. CSVN rất thèm muốn kiểm
soát chặc chẽ nguồn tài nguyên này.
3.
Kiều
hối là một nguồn ngoại tệ vô điều kiện và phẩm chất cao hơn các nguồn FDI khác.
-
Theo Người Việt thì nguồn kiều hối về
Sài Gòn năm 2023 gấp 3 lần vốn đầu tư ngoại quốc
-
Hằng năm lượng kiều hối đổ về Sài Gòn
chiếm hơn một nửa ở Việt Nam.
-
Lượng kiều hối chuyển về Sài Gòn năm
2023 gần $9 tỷ, tăng 35% so với năm ngoái và gần gấp ba vốn đầu tư trực tiếp từ
ngoại quốc (FDI) chỉ với khoảng $3.4 tỷ.
(Thông tin trên được ông Võ Văn Hoan, phó chủ tịch ở
Sài Gòn, cho biết tại “Hội Nghị Ngoại Giao 32” diễn ra tại Hà Nội hôm 21 Tháng
Mười Hai).
-
Theo số liệu chính thức từ Ngân Hàng Nhà
Nước, kiều hối về Việt Nam mỗi năm trên $10 tỷ, thậm chí có năm vượt hơn, cụ thể
như hồi 2021 là $12.5 tỷ.
-
Còn theo ước tính của Ngân Hàng Thế Giới
(WB) và Tổ Chức Hợp Tác Quốc Tế Về Người Di Cư, trung bình ba năm gần đây Việt
Nam nhận tới $17-$18 tỷ kiều hối mỗi năm.
-
Ngân Hàng Nhà Nước chi nhánh Sài Gòn dự
báo năm 2024, lượng kiều hối chuyển về sẽ tăng khoảng 20% so với năm nay, khi
thế giới đang kỳ vọng vào sự chuyển mình sau đại dịch COVID-19.
Tóm
lại CSVN ý thức rằng:
1.
Nếu
kiểm soát và điều hướng được cộng đồng hải ngoại thì CĐ biến thành một nguồn
tài nguyên vô tận cho tham nhũng và phát triển kinh tế cầm chừng, hầu duy trì sự
trị vì của đảng
2.
Nếu
không kiểm soát được thì CĐ hải ngoại biến thành một thành trì của đối lập
chính trị, với nguồn tài chánh dồi dào có thể thách thức quyền lực của đảng.
III.
Hậu
quả Quyết Định 1334:
Nếu chúng ta bất lực trước sách lược này của CSVN
thì hậu quả sẽ là:
A. Hậu
quả nhẹ: các CĐ vốn đang chia rẽ sẽ chia rẽ trầm trọng hơn, trở thành 2 hoặc 3 khuynh hướng: Quốc Gia, Cộng sản
và Trung Lập và người Việt Quốc Gia sẽ không còn nơi chốn an toàn để an cư lạc
nghiệp tại hải ngoại
B. Hậu
quả nặng: CĐ hải ngoại bị CSVN khống chế toàn diện và trở thành một Hồng Kong
hoặc Macau mới dưới ảnh hưởng nặng nề của CSVN.
C. Nền
văn hóa giáo dục các thế hệ trẻ, hậu duệ của truyền thống văn hóa tốt đẹp của
VNCH, sẽ bị Mác Xít hóa và thế hệ trẻ sẽ bị đầu độc ý thức hệ Mác Lê.
D. Sự
trị an của CĐ tại các quốc gia hải ngoại sẽ rối loạn vì có 2 luật lệ: luật quốc
gia sở tại và luật rừng CS Việt Nam
E. Những
thành phần chống cộng có thể bị bắt cóc, giải về VN, giết người, hăm dọa qua sự
chủ xướng của CSVN, sẽ xảy ra thường xuyên
F. Toàn
thể CĐ hải ngoại sẽ trở thành một phiên bản của xã hội CSVN, tức một xã hội
công an trị, không còn những tự do và nhân quyền căn bản ngay trên các quốc gia
dân chủ.
Những gì đang xảy ra tại Hồng Kong là một cảnh giác
cho chúng ta.
IV.
Chúng
ta cần sách lược gì để đối phó hiệu năng Quyết Định 1334:
Chúng ta cần một sách lược nghiêm chỉnh hầu đối phó
với QĐ 1334 này.
Sách lược này sẽ căn cứ trên 4 thực thể hợp tác làm
việc chung:
1. Các
tổ chức chính trị quốc gia hải ngoại
2. Các
CĐ NVTD hải ngoại
3. Các
cơ quan truyền thông quốc gia hải ngoại
4. Các
cơ quan trị an và phản gián các quốc gia sở tại
A.
Vai
trò các tổ chức đấu tranh quốc gia hải ngoại
QĐ 1334 dĩ nhiên không phải là một quyết định đơn
thuần về kinh tế và trong phần phân chia công tác quyết định này không che dấu,
ngoài bộ Ngoại Giao và Công An ra, QĐ phân công rõ rệt cho các cơ quan của đảng
như sau:
“Ban
Tuyên giáo Trung ương, Trung ương đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Các cơ
quan khác: như Ban Dân vận Trung ương, Ban Kinh tế trung ương, Ban Đối ngoại
Trung ương, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, … hỗ trợ thực hiện Đề án; nghiên cứu lồng
ghép các phương châm, mục tiêu, giải pháp của Đề án vào nội dung, chương trình
làm việc của các cơ quan.”
Yếu tố nêu trên chứng tỏ
đảng CSVN không cần núp sau guồng máy nhà nước, mà công khai thò bàn tay lông
lá của mình, kiểm soát trực tiếp cộng đồng kiều bào hải ngoại.
Các tổ chức chính trị cần
nghiên cứu những sách lược vạch trần âm mưu này của CSVN.
Hiện nay, các tổ chức chính trị hải ngoại bao gồm 2
loại chính:
1. Những
chính đảng quốc gia đã khai sinh từ thời Pháp Thuộc và trường tồn với lịch sử
cho đến hôm nay như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Tân Đại Việt và các hệ phái Đại Việt
khác nhau, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ….
2. Những
tổ chức khai sinh sau 1975: Việt Tân, Lực Lượng Cứu Quốc (bao gồm Tổ Chức Phục
Hưng VN, Tập Hợp Đồng Tâm và Pong Trào Sài Gòn), Đảng Nhân Bản Xã Hội, Họp Mặt
Dân Chủ, Mạng Lưới Nhân Quyền….
Tuy có nhiều cố gắng thành lập các liên minh có thực
lực, nhưng cho đến hôm nay vẫn chưa thành lập được một LM chính trị có thể
thách thức CSVN. Tuy là những tổ chức tương đối chặc chẽ hơn CĐ và ít bị CS xâm
nhập, nhưng các tổ chức chính trị đang trên đà lão hóa và thiếu thế hệ kế thừa.
Điều này đưa đến khủng hoảng niềm tin, khủng hoảng nhân sự và tài chánh.
Lối thoát duy nhất là liên kết với nhau hầu củng cố
niềm tin, kết hợp nhân sự và kết hợp tài chánh.
Tuy nhiên trở lực lớn lao nhất là tính bảo thủ và bản
ngã lớn lao của giới lãnh đạo cũng như tự ái tập thể của các TC này.
Sự ra đời của Quyết Định 1334 là một tiếng chuông cảnh
tỉnh cho các tổ chức chính trị.
Các tổ chức chính trị cần làm:
1.
Công
tác liên minh
Đã đến lúc, các TC đấu tranh và lãnh đạo của họ ý thức
hiểm họa của QĐ 1334, khống chế bản ngã của các nhân và tập thể, kết thành một
hay một vài Liên Minh có thực lực, hầu hợp tác làm việc với các CĐ, trong một
thế hỗ tương “môi hở răng lạnh” hầu bảo vệ thành trì hải ngoại và khởi một thế
công hầu đạp đổ độc tài, hoàn tất tiến trình dân chủ hóa đất nước.
2. Thành lập các nhóm tham mưu hỗn hợp,
hoặc giữa các TC chính trị hoặc với các CĐ hầu phản biện các luận điệu hoặc tác
động của Ban Tuyên giáo Trung ương,
Trung ương đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Các cơ quan khác: như Ban Dân
vận Trung ương, Ban Kinh tế trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương, Ủy ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
B.
Các
Cộng Đồng Người Việt Tự Do Hải Ngoại
Sự kiện Bộ Ngoại Giao CSVN được phân công cụ thể
trong QĐ 1334, và qua bộ này, dĩ nhiên các đại sứ quán và lãnh sự quán sẽ được
giao công tác tại các địa phương hải ngoại, phải là một cảnh báo cụ thể cho các
CĐ:
”Bộ Ngoại giao:
a) Là đầu mối theo dõi, điều phối, đôn đốc, tổng hợp
tình hình thực hiện Đề án.
b) Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương,
cơ quan, đơn vị liên quan thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
- Đẩy mạnh công tác hỗ trợ và vận động cộng đồng,
phát hiện nhân tố mới, thúc đẩy kết nối, hỗ trợ hình thành, củng cố và phát triển
các hội đoàn, mạng lưới trí thức, doanh nhân tích cực đóng góp cho sự phát triển
của đất nước; tăng cường vận động chính quyền, cơ quan tổ chức các nước đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi để tăng vị thế của cộng đồng,
các tổ chức hội đoàn của người Việt ở sở tại.
- Tăng cường nghiên cứu, tổng hợp thông tin về tình
hình các nguồn lực NVNONN; hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, đoàn thể,
doanh nghiệp, cá nhân trong việc kết nối, thu hút các nguồn lực của NVNONN; phối
hợp với các địa phương trong việc tổ chức chương trình Xuân Quê hương, Trại hè
thanh thiếu niên, Khóa tập huấn, bồi dưỡng tiếng Việt, các hội nghị hội thảo,
hoạt động từ thiện... hàng năm.
- Tổ chức các hoạt động nhằm cập nhật thông tin về
tình hình đất nước, chính sách pháp luật đối với NVNONN, kết hợp lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng, ý kiến của NVNONN; đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi,
bổ sung, ban hành chính sách, pháp luật nhằm giải quyết khó khăn, vướng mắc, tạo
điều kiện thuận lợi để NVNONN về nước sinh sống, làm việc, đầu tư, sản xuất,
kinh doanh...
- Tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án “Huy động người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia giới thiệu, tiêu thụ sản phẩm và phát triển các
kênh phân phối hàng Việt Nam ở nước ngoài, giai đoạn 2020 - 2024”, Đề án “Ngày
Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng NVNONN giai đoạn 2023 - 2030”.
- Xây dựng Đề án Cơ sở dữ liệu về NVNONN trình Thủ
tướng Chính phủ.
- Kiến nghị hình thức, biện pháp khen thưởng xứng
đáng với các cơ quan, tổ chức, cá nhân tiêu biểu ở trong và ngoài nước có thành
tích xuất sắc trong đóng góp nguồn lực, thu hút nguồn lực NVNONN phục vụ phát
triển đất nước.
- Phát hiện, vận động và bổ nhiệm các cá nhân NVNONN
có uy tín và quan hệ tốt với sở tại làm Lãnh sự danh dự của Việt Nam ở các nước.
- Tổ chức hoặc hỗ trợ tổ chức các khóa đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức công tác NVNONN, tập trung vào công tác vận động cộng đồng và
thu hút nguồn lực NVNONN.
- Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, đánh giá việc thực
hiện Đề án của cơ quan, tổ chức, địa phương; tổ chức sơ kết việc thực hiện Đề
án vào năm 2027 và tổng kết vào năm 2031.”
Các
CĐ hiện đang bị chia rẽ trầm trọng tại Hoa Kỳ, Âu Châu và Úc Châu. Các lý do
chính như sau:
1. CSVN
đã từ lâu xâm nhập các cộng đồng (nhất là tại Pháp) và chủ trương chia rẽ để
phá hoại theo nghị quyết 36 của đảng.
2. Các
tổ chức CĐ là những tổ chức mở rộng cho mọi thành viên, kém sự tổ chức chặt chẽ,
khác với các tổ chức chính trị khó bị xâm nhập hơn.
3. Các
tổ chức CĐ có các nhiệm vụ thông thường sau đây:
a. Thực
hiện các công tác an sinh và xã hội
b. Bảo
vệ chính nghĩa quốc gia biến CĐ trở nên thành trì chống cộng hải ngoại
c. Giúp
các thành viên, nhất là thế hệ trẻ tham gia các công tác chống cộng hoặc tham
gia các đảng phái chính mạch tại các quốc gia sở tại
Tuy
nhiên, sự chia rẽ đấu đá trong các cộng đồng, mặt này và những chính sách chiêu
dụ người Việt Hải ngoại của CSVN mặt kia, có hậu quả là giới trẻ mất niềm tin,
không tham gia các tổ chức đấu tranh chống cộng, mà giới trẻ lại có khuynh hướng
hoặc thăm viếng du hí VN, hoặc tham gia các đảng phái chính mạch tại các quốc
gia sở tại, nhiều hơn là tham gia các đảng phái quốc gia chống cộng.
Chính
vì thế chúng ta phải sử dụng Quyết Định 1334 này như một cảnh báo các CĐ về các
nhu cầu sau đây:
a.
Xóa
bỏ chia rẽ, tỵ hiềm các nhân và phe nhóm, đoàn kết trước hiểm họa của Quyết Định
1334
b.
Ý
thức rõ rệt tính hổ tương giữa các CĐ và các tổ chức chính trị quốc gia, trong
đó các CĐ là thành trì chống cộng, giữ vai trò “thủ” tức bảo vệ thành trì hải
ngoại, và các tổ chức chính trị giữ vai trò “công” tức là những mũi dùi công
phá chế độ CSVN
c.
Tạo
ra những cấu trúc/ mô hình làm việc chung giữa CĐ và TC quốc gia, từ địa
phương, đến quốc gia, đến quốc tế hầu phát huy tính hổ tương giữa thủ và công của
hai thực thể
d.
Trên
bình diện lý thuyết, nếu thành công thì người Việt Quốc Gia sẽ có một CĐ hải
ngoại đoàn kết với tổng sản lượng GDP không thua kém toàn nước Việt Nam và một
hay nhiều liên minh chính trị có thực lực, đủ để quốc tế tin tưởng và có thể
thách thức uy tín và quyền lực của đảng CSVN
e.
Trên
bình diện thực tế, thành công đến mức độ nào thì tiến trình dân chủ hóa sẽ rút
ngắn đến mức độ đó.
Một cách tổng quát các CĐ cần phải:
1. Nổ
lực hóa giải các tranh chấp cá nhân và phe nhóm
2. Hợp
tác với các tổ chức đấu tranh chính trị quốc gia hầu đối phó hiệu năng với QĐ
1334 này
C.
Các
cơ quan truyền thông hải ngoại
Các cơ quan truyền thông quốc tế tại các quốc gia
dân chủ thông thường không chú trọng đến tiến trình dân chủ hóa của bất cứ quốc
gia nào, kể cả Việt Nam. Họ chỉ là những cơ quan hoặc thương mại, hoặc của các
chính phủ liên hệ như BBC, VOA, RFA, RFI…. Chỉ có các cơ quan truyền thông do
các tổ chức đấu tranh người Việt hải ngoại, hoặc nhân sĩ hải ngoại, mới thật sự
tập chú vào tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Chúng ta cần liên hệ, liên kết và
nâng cao ý thức về sự quan trọng của QĐ 1334 và sử dụng các cơ quan truyền
thông này hầu đả phá ý đồ đen tối của CSVN.
Một số cơ quan truyền thông sau đây là tiêu biểu:
-
Radio Đáp Lời Sông Núi của Lực Lượng Cứu
Qốc
-
Báo Quốc dân của Việt Nam Quốc Dân Đảng
-
Đối Thoại Online của Tổ Chức Phục Hưng
Việt Nam
-
Thông Luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên
-
Quyền Được Biết của một nhóm nhân sĩ
-
Tiếng Dân của một nhóm nhân sĩ
-
Báo Người Việt
-
Việt Nam Thời Báo
-
Đất Việt
-
Việt Báo ….
Danh sách nêu trên dĩ nhiên cần được bổ sung, tuy
nhiên chúng ta cần vận dụng tối đa các cơ quan truyền thông quốc gia, trong
công tác phản biện quan trọng này.
D.
Các
cơ quan trị an (security) và phản gián (anti-espionage) của các quốc gia như Hoa
Kỳ, Canada, Úc, Khối Liên Âu etc…
Sự kiện Bộ Công An CSVN, đáng lý không thể xen lấn
vào trị an của các CĐ hải ngoại, vì làm như thế sẽ trái với công pháp quốc tế
và xâm phạm chủ quyền của các quốc gia sở tại, sẽ là cảnh báo cho các cơ quan
trị an, nhất là phản gián (anti-espionage) tại các quốc gia dân chủ chân chính,
như FBI hoặc CIA tại Hoa Kỳ, MI 5 hay MI 6 của Anh Quốc, ASIO của Úc etc…
Thực vậy QĐ 1334 minh thị giao phó trách nhiệm cho
Công an CSVN:
“Bộ Công an:
- Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên
quan nghiên cứu phương án cấp thẻ cư trú (hoặc hình thức phù hợp khác) dành cho
NVNONN có khả năng tích hợp và thay thế các loại giấy tờ hiện hành như Giấy miễn
thị thực, Giấy xác nhận là người gốc Việt Nam, Giấy phép lao động...; đề xuất giải
pháp về quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập cảnh, cư trú, nhằm đảm bảo
quyền lợi và phát huy tiềm năng của NVNONN phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Phối hợp với cơ quan liên quan tham mưu, đề xuất
lãnh đạo Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành và thực hiện các chủ trương, chính
sách pháp luật nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng NVNONN cư
trú, sinh sống hợp pháp tại địa bàn, cũng như về nước thăm thân, đầu tư kinh
doanh....
- Thông qua hợp tác quốc tế trên lĩnh vực an ninh,
trật tự, phối hợp với cơ quan thực thi pháp luật các nước triển khai công tác bảo
hộ công dân NVNONN, giải quyết những vấn đề phức tạp, vướng mắc liên quan đến vấn
đề pháp lý, đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến NVNONN, hỗ trợ đảm bảo
an ninh cộng đồng.
- Phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động
tuyên truyền, lôi kéo NVNONN tham gia các hoạt động chống phá Việt Nam của các
thế lực thù địch, phản động lưu vong.”
Nội dung trên, nếu được quảng bá và giải thích cho
các quốc gia sở tại sẽ khơi dậy nhiều cảnh gác.
Lý do là vì các cơ quan chức năng tại các quốc gia
dân chủ có 2 trách nhiệm lớn.
Một là bảo vệ chủ quyền quốc gia: tức là chỉ có một
luật pháp duy nhất hiệu lực trong quốc gia. Luật pháp VN không thể áp dụng tại
các quốc gia sở tại.
Hai là, họ phải có trách nhiệm bảo vệ trị an cho những
công dân của họ gốc Việt nữa.
Chính vì thế, bất cứ địa phương nào thuận tiện, nên
thành lập các thực thể sau đây:
1. Các
nhóm Đặc Nhiệm (Special Task Force) hỗn hợp giữa CĐ, TC Chính trị và cơ quan phản
gián sở tại
2. Các
ủy ban phối hợp (co-ordination committee) hỗn hợp tương tư
Các CĐ cũng như TC Chính trị nên làm các mẫu đơn tố
cáo bằng tiếng các quốc gia sở tại, cho các thành viên cộng đồng có thể tố cáo
các động thái bất hợp pháp của công an CSVN, hoặc các đảng viên CSVN có ý đồ bất
chính….
V.
Kết
luận:
Nêu trên chỉ là một số góp ý, như là một vài dữ kiện
để chúng ta có thể thảo luận, góp ý hầu đi đến một sách lược đồng bộ cho các tổ
chức đấu tranh, cơ quan truyền thông và CĐ hải ngoại.
Kính,
LS
Đào Tăng Dực