Hồ
Duy Hải và thân phận người dân Việt Nam dưới Pháp Chế Xã Hội Chủ Nghĩa
Luật
sư Đào Tăng Dực
Việt Nam không phải là một quốc gia có một nền dân chủ hiến định, pháp
trị và đa nguyên như các quốc gia dân chủ trên thế giới. Chính vì thế hệ thống
pháp lý của Việt Nam là “Pháp chế xã hội chủ nghĩa”, không phải là chế độ pháp
trị bình thường như tại các quốc gia dân chủ.
Lý do pháp chế xã hội chủ nghĩa khác biệt với chế độ pháp trị bình thường
là vì sự vắng bóng của yếu tố hiến định (tức là tính tối cao của một hiến pháp
nghiêm chỉnh, thay vì tính tối cao của điều lệ đảng CSVN) và sự vắng bóng của
yếu tố đa nguyên (tức sự hiện diện của đối lập chính trị hầu giám sát hoạt động
của đảng CSVN).
Sự vắng bóng của hai yếu tố này đưa đến sự lệ thuộc của hệ thống tư pháp,
gồm các tòa án vào sự lãnh đạo chính trị của đảng và từ đó, thiếu yếu tính độc
lập và công lý có thể bị bức tử dễ dàng.
Chính vì thế, không những anh Hồ Duy Hải mà bất cứ công dân Việt Nam nào
khác, đứng trước vành móng ngựa của một tòa án theo pháp chế xã hội chủ nghĩa
này, cũng có xác xuất chịu một số phận như nhau.
Tuy nhiên, lý do chúng ta chú tâm nhiều đến vụ án này, ngoài tính nghiêm
trọng của nó vì liên quan đến tội cố sát và án tử hình, là vì những vi phạm
không những các nguyên tắc luật pháp bình thường tại các quốc gia dân chủ, mà
nó còn vi phạm ngay cả những thủ tục pháp lý của pháp chế xã hội chủ nghĩa tại
Việt Nam nữa.
Trước khi phân tích và đánh giá vụ án này, chúng ta xác định các sự kiện
như sau, theo Wikipedia Việt Ngữ:
“1. Thảm sát xảy ra ngày
13/1/08:
Tại Bưu điện Cầu Voi, ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Trong đó, hai nữ nhân viên bưu điện tên Nguyễn
Thị Ánh Hồng (sinh năm 1985) và Nguyễn Thị Thu Vân (sinh năm 1987) bị giết bằng cách cắt cổ.
2. Ngày 21 tháng 3 năm 2008, nghi phạm Hồ Duy Hải
sinh năm 1985 bị bắt
3. Qua hai lần xét xử sơ thẩm (năm 2008 tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An) và phúc
thẩm (năm 2009 tại Tòa Phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh), Hồ Duy Hải bị kết án tử hình về tội giết người,
5 năm tù về tội cướp tài sản, tổng hợp hình phạt là tử hình. Tuy nhiên, gia
đình Hồ Duy Hải liên tục kêu oan.
4. Năm 2011, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình quyết định không kháng nghị vụ án.
5. Năm 2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bác đơn xin ân xá của Hồ Duy Hải. Sau đó, trước sự phản đối mạnh
mẽ của dư luận trong nước và quốc tế cũng như Quốc hội Việt Nam, năm 2014, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ra lệnh tạm dừng thi hành án tử hình đối với Hồ Duy Hải.
6. Ngày 22 tháng 11 năm 2019, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Lê Minh
Trí kháng nghị giám đốc thẩm vụ án,
sau khi nhận được đề nghị xem xét giải quyết đảm bảo đúng pháp luật vụ án
từ Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7 năm 2019
7. Ngày 8 tháng 5 năm 2020, sau 3 ngày xét xử giám
đốc thẩm vụ án, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao thông qua bỏ
phiếu công khai, quyết định không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
8. Đây là một vụ án có nhiều vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án như:
a. Thay đổi vật chứng;
b. Bỏ sót các chứng cứ pháp y như vân tay, vết máu
tại hiện trường;
c. Bỏ qua một số bản khai cung không nhận tội của
bị cáo
9. Tuy nhiên Tòa án nhân dân tối cao nhận định
những vi phạm pháp luật này không làm thay đổi bản chất của vụ án nên không cần
thiết phải hủy các bản án sơ thẩm, phúc thẩm để điều tra lại theo kháng nghị
của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
10. Tại thời điểm xảy ra vụ án, nạn nhân Nguyễn
Thị Ánh Hồng đang có mối quan hệ tình cảm với ba người đàn ông: Nguyễn Mi Sol
(người yêu cũ), Nguyễn Văn Nghị (người yêu mới) và một kĩ sư tên Trung (bạn mới
quen). Trần Văn Chiến và Nguyễn Tuấn Anh đang theo đuổi Hồng.”
Thành viên Hội Đồng Thẩm
Phán gồm 17 người và chủ tịch Hội Đồng là thẩm phán Nguyễn Hòa Bình, người mà
năm 2011, trong chức vụ viện trưởng Viên Kiểm Sát Tối Cao Nhân Dân, đã quyết định
không kháng cáo vụ án này.
Một các tổng quát thế
giới đương đại có hai hệ thống tư pháp thịnh hành, một là hệ thống tư pháp phát
xuất từ Anh Quốc theo truyền thống Common Law căn cứ nhiều trên án lệ và hai là
hệ thống phát xuất từ Pháp gọi là Code Napoleon hay Civil Code, chịu ảnh hưởng
của cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, căn cứ nhiều trên luật thành văn.
Hệ thống luật pháp Cộng
Sản tuy gọi là pháp chế xã hội chủ nghĩa, và không còn yếu tố độc lập và vô tư
của Civil code hiện hành tại Pháp hoặc phần lớn các quốc gia lục địa Âu Châu,
nhưng chịu ảnh hưởng của Liên Xô cũ và qua Liên Xô cũ, chịu ảnh hưởng của Civil
Code nhiều hơn.
Tuy nhiên cả Common Law
(Anh Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Tân Tây Lan…) lẫn Civil Code (Pháp, các nước lục
địa Âu Châu, các cựu thuộc địa các quốc gia trên) đều tôn trọng những nguyên tắc
nền tảng sau đây:
1.
Các khái niệm giả định vô tội (presumption of innocence) và trách nhiệm chứng
minh (onus of proof):
Một bị cáo tự thể được
giả định là vô tội (presumption of innocence) và trách nhiệm chứng minh (onus
of proof) một bị cáo có tội hầu kết án về hình sự là trách nhiệm của Công Tố Viện
(Prosecutor’s Office), trong trường hợp của Việt Nam là Viện Kiểm Sát Tối Cao
Nhân Dân, không phải trách nhiệm của bị cáo.
Tuy bị cáo có thể nêu
ra chứng cớ phản bác những chứng cớ của Viện Kiểm Sát và chứng minh sự vô tội của
mình, nhưng chỉ cần VKS bày tỏ nghi vấn về phẩm chất của chứng cứ đã trình tòa,
hoặc minh thị rút lại chứng cứ, thì nguyên tắc “giả định vô tội” lập tức được
kích hoạt và tòa án không còn sự chọn lựa nào ngoài hủy án, tái xét hoặc tha bổng
cho bị cáo.
Trong trường hợp
của HDH, một khi vào “ngày 22 tháng 11 năm
2019, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Lê Minh
Trí kháng nghị giám đốc thẩm vụ án,
sau khi nhận được đề nghị xem xét giải quyết đảm bảo đúng pháp luật vụ án
từ Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7 năm 2019” thì điều này chứng minh có nhiều
khiếm khuyết về phẩm chất cũng như số lượng chứng cứ đưa đến việc kết án,và Ông Nguyễn Hòa Bình cũng như 16 vị thẩm
phán TANDTC còn lại không có sự chọn lựa nào ngoài chấp nhận kháng nghị của
VKS, hủy bỏ bản án, tái điều tra và tái xử hoặc tuyên bố HDH vô tội.
2.
Cấp độ chứng minh (standard of proof):
Vấn đề chứng cứ trong một
phiên tòa, dù là những phiên tòa dân sự hay hình sự cũng vô cùng quan trọng, nhất
là về hình sự thì lại càng nghiêm khắc hơn.
Phiên xử HDH cho thấy
nhiều khuyết điểm về chứng cứ như:
a. Thay đổi vật chứng;
b. Bỏ sót các chứng cứ pháp y như vân tay, vết máu
tại hiện trường;
c. Bỏ qua một số bản khai cung không nhận tội của
bị cáo
Trong hệ thống hình sự
Common Law có 2 cấp độ chứng cứ rõ rệt trước khi tòa tuyên phán. Cấp độ chứng
minh trong các phiên tranh tụng dân sự là “có xác xuất phải chăng” (On the
balance of probability) có thể đồng nghĩa với xác xuất một sự kiện xảy ra trên
50% là thắng kiện. Tuy nhiên trong một phiên tòa hình sự thì cấp độ chứng minh
phải là “Không còn lý do chính đáng để nghi ngờ” (Beyond Reasonable Doubt) có
nghĩa một người phải chăng (reasonable person) không còn lý do để nghi ngờ tội
phạm của một bị cáo. Hầu như xác xuất là 90% hay hơn nữa.
Hệ thống tư pháp Civil Code tại Pháp và Âu Châu
khác với Anh Quốc và Hoa Kỳ ở điểm then chốt này. Trong cả dân sự lẫn hình sự,
cơ quan hoặc cá nhân trách nhiệm phải thuyết phục quan tòa đến mức độ quan tòa
đạt đến một “sự thuyết phục thâm tâm” (intime conviction) trước khi phán quyết. Ý niệm “thuyết phục thâm tâm” này buộc quan
tòa phải xét đến tất cả mọi chứng cứ từ lời nói, văn kiện, khoa học, tâm lý
v.v…và quyết định trong khi ý thức hoàn toàn tính chủ quan của chính vị thẩm
phán.
Tuy về dân sự, cấp
độ quan tòa phán xét một vụ tranh chấp căn cứ trên nguyên tắc “sự nổi bật của
chứng cứ” (preponderance des preuves). Nhưng sự nổi bật của chứng cứ này không
phải tương xứng với ý niệm “có xác xuất phải chăng” trong Common Law mà đòi hỏi
một cấp bực chứng cứ tương đối cao hơn. Chính vì thế tranh tụng về dân sự tại
Pháp đòi hỏi nhiều chứng cứ hiển nhiên hơn tại Anh hay Hoa Kỳ như giao kèo
thành văn chẳng hạn.
Trong khi đó,
trong một phiên xử hình sự, tuy mức độ “thuyết phục thâm tâm” áp dụng, nhưng dĩ
nhiên vì hình sự liên hệ đến sự tự do và đôi khi tính mạng của một công dân nên,
trong thực tế, yếu tố “nổi bật của chứng cứ” sẽ cao hơn và tương tự với “beyond
reasonable doubt”.
Chính vì thế trong trường hợp của HDH, nếu đứng trước
một pháp đình nghiêm chỉnh trong truyền thống Common Law lẫn Civil Code, HDH đều
vô tội vì những chứng cứ nhiều khuyết điểm như thế sẽ không đủ sức thuyết phục
một Bồi Thẩm Đoàn “beyond reasonable doubt” tại Anh Quốc hay Hoa Kỳ và cũng sẽ không
thể thuyết phục một Thẩm Phán hay Thẩm Phán Đoàn tại Pháp đến mức độ “intime
conviction” và HDH sẽ được tuyên bố vô tội tại cả 2 pháp đình.
Thêm vào đó, vì cấp độ
chứng minh của cả 2 khái niệm “beyond reasonable doubt” hoặc “intime
conviction” trong án hình sự rất cao, nên sự hiện hữu của những nghi can khác
(như Nguyễn Mi Sol (người yêu cũ), Nguyễn Văn Nghị (người yêu mới)
và một kĩ sư tên Trung (bạn mới quen). Trần Văn Chiến và Nguyễn Tuấn Anh
đang theo đuổi Hồng.) hầu như chắc chắn sẽ làm các vị thẩm phán vô
cùng nghi ngờ phẩm chất các chứng cớ về tính tội phạm (criminality) của HDH và
xác xuất trắng án của bị cáo lại càng cao hơn nữa.
3. Khái niệm xung đột quyền lợi (conflict of
interests)
Đây là một khái
niệm then chốt của công lý nhân loại đương đại, phát xuất từ một phiên tòa tại
Anh Quốc năm 1924 và xuất xứ của một câu châm ngôn lừng danh trong giới luật sư và thẩm phán thời đại.
Đó là câu:
“Justice must
not only be done, but must be seen to be done” dịch ra tiếng Việt là “Công lý
không những phải được thực thi, mà phải làm sao cho mọi người nhìn thấy nó được
thực thi” của Chánh Thẩm Phán Lord Chief Justice Hewart trong phiên xử R v
Sessex Justices, ex parte McCarthy, năm 1924.
Phiên xử này quy
định những nguyên tắc nền tảng liên hệ đến tính vô tư và sự vắng mặt cần thiết của
các thẩm phán khi có xung đột quyền lợi.
Chính vì thế TP
Nguyễn Hòa Bình và 16 vị Thẩm Phán trong phiên xử HDH cần học hỏi phiên xử này.
Theo Wikipedia
Anh Ngữ, thì phiên xử được tóm lược như sau:
“Năm 1923 một
người đi xe gắn máy là McCarthy dính vào một tai nạn xe cộ và bị truy tố trước
tòa về tội lái xe gây nguy hiểm (dangerous driving). Cả bị cáo lẫn luật sư của
ông đều không biết thư ký của các chánh án là thành viên của một cong ty luật đại
diện trong một phiên xử dân sự chống lại McCarthy đòi bồi thường thiệt hại liên
hệ tới tai nạn xe cộ này. Các quan tòa kết tội McCarthy sau đó. Sau khi biết được
quan hệ trên của thư ký này thì McCarthy kháng cáo yêu cầu hủy án. Các quan tòa
nộp một văn kiện hữu thệ xác định họ đã phán quyết kết án bị cáo nhưng không hề
tham khảo người thư ký này”.
Theo chánh thẩm
phán Lord Chief Justice Hewart này thì tuy các thẩm phán xử án thực sự vô tư,
nhưng chỉ cần hình thức bề ngoài có vẻ không vô tư thì công lý đã không được thực
thi rồi.
Chính vì thế
ngài đã phải hủy bản kết án và phán xét này đã đi vào lịch sử.
Khi nguyên tắc
này áp dụng cho HDH thì 2 sự kiện:
a. Một là ông
Nguyễn Hòa Bình vào năm 2011 làm Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao vàđã quyết định không kháng nghị vụ án và
b. Hai là ông ngang nhiên trở thành Chánh Thẩm Phán
trong phiên xử ngày 8 tháng 5, 2020
đã vi phạm trầm
trọng nguyên tắc xung đột quyền lợi (conflict of interests) vô cùng hiển nhiên
và cũng vì thế sự phán xét của tòa bị hoen ố toàn diện khi ông làm chánh thẩm.
4. Tương quan nghiêm chỉnh giữa Bộ Luật Tố Tụng Hình
Sự (BLTTHS) và Bộ Luật Hình Sự (BLHS).
Một trong những
lập luận rất lạ lùng của Tòa Án Nhân Dân Tối Cao là những vi phạm pháp luật liên hệ
đến Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự, khi truy tìm chứng cứ của Công An không làm thay
đổi bản chất của vụ án nên không cần thiết phải hủy các bản án sơ thẩm, phúc
thẩm để điều tra lại theo kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao.
.
Khi lập luận như
thế 17 vị thẩm phán này đã lập luận không phải như những luật gia, mà như những
đảng viên trung kiên của ý thức hệ Mác Lê.
Trong khi tương
quan giữa BLTTHS và BLHS không những là một tương quan có tính phương tiện và
cứu cánh (means and end), mà kèm theo đó là một tương quan có tính nhân quả
(cause and effect).
Một mặt BLTTHS cần
phải được tuân thủ nghiêm cẩn hầu bảo đảm phẩm chất của chứng cớ (phương tiện)
và đạt đến mục tiêu công lý của BLHS (cứu cánh).
Mặt khác nếu không có
chứng cớ phẩm chất cao qua tuân thủ BLTTHS (nguyên nhân) thì công lý như quy
định trong BLHS sẽ không được thực thi (hậu quả).
Không những trong
chế độ pháp trị dân chủ chân chính mà ngay cả dưới chế độ pháp chế xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam, nguyên tắc này phải được mọi luật gia đả thông.
Chính
vì thế, điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định: “Chứng
cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người
thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án”.
Lập luận nêu trên
của 17 vị thẩm phán là lập luận cố hữu của các đảng viên CS giáo điều tức “cứu
cánh biện minh cho phương tiện”.
Vì họ đã cả quyết
HDH là có tội thì BLTTHS chỉ là một phương tiện, nếu không cần thiết thì vứt đi,
vì mục tiêu đã đạt được.
Câu hỏi chúng ta đặt ra là:
Tại sao những quan tòa tối cao của đất nước lại có
thể quan niệm về luật pháp lạ lùng như thế?
Câu trả lời đơn
giản là dưới trật tự chính trị Mác Lê và pháp chế xã hội chủ nghĩa, các thẩm phán, thay
vì là những luật gia uyên bác và vô tư thì chỉ là những đảng viên thuộc các phe
nhóm, được gài ghép vào những vị trí hầu ban thưởng hoặc củng cố quyền lực,
hoàn toàn không đủ phẩm chất của những thẩm phán nghiêm chỉnh như tại các quốc
gia pháp trị nghiêm minh.
Ngay cả trong trường hợp Hồ Duy Hải được tái thẩm đúng theo
công lý hoặc phán xét vô tội, thì số phận của nhân dân Việt vẫn không được cải
thiện, trừ khi một hệ thống pháp lý nghiêm chỉnh được hình thành tại Việt Nam
trong phạm trù của một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính.
No comments:
Post a Comment