Thursday, 13 November 2025

 

Sự toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết dân tộc.

Luật sư Đào Tăng Dực

www.daotangduc.blogspot.com

Sự toàn vẹn lãnh thổ (territorial integrity) và quyền tự quyết dân tộc (national self-determination) là 2 khái niệm nền tảng của Công Pháp Quốc Tế đương đại.

Chúng ta có thể định hình 2 nguyên tắc này một cách tổng quát như sau:

Toàn vẹn lãnh thổ là nguyên tắc nền tảng trong luật quốc tế, được quy định tại Điều 2.4 của Hiến chương Liên Hợp Quốc (UN Charter), cấm mọi hành vi sử dụng vũ lực nhằm xâm phạm lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia khác. Đây là cơ sở để duy trì trật tự quốc tế, ngăn chặn chiến tranh và bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Quyền tự quyết dân tộc, được ghi nhận tại Điều 1.2 của Hiến chương LHQ và Điều 1 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Covenant on civil and political rights), là quyền của một dân tộc được tự do lựa chọn thể chế chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của mình. Quyền này từng là động lực chính trong các phong trào giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân trong thế kỷ 20.

Có một mối quan hệ đôi khi mâu thuẫn giữa hai nguyên tắc trọng yếu này.

Trong thực tiễn, hai nguyên tắc này không phải lúc nào cũng hài hòa. Toàn vẹn lãnh thổ bảo vệ sự thống nhất quốc gia, trong khi quyền tự quyết dân tộc có thể dẫn đến ly khai hoặc thành lập quốc gia mới. Ví dụ điển hình là Kosovo, Nam Sudan hay các phong trào độc lập tại Catalonia và Scotland.

Luật quốc tế hiện đại thường ưu tiên toàn vẹn lãnh thổ để duy trì ổn định toàn cầu, nhưng cũng thừa nhận ngoại lệ trong các trường hợp dân tộc bị đàn áp, không có quyền tự trị hoặc sống dưới chế độ độc tài. Trong những trường hợp đó, quyền tự quyết có thể được xem là ưu tiên cao hơn.

Cũng vì trật tự chính trị toàn cầu và tương quan giữa 2 khái niệm này không hoàn hảo, nên theo quan điểm của tác giả, chúng ta có thể phân loại các quốc gia theo mức độ “may mắn” dựa vào 2 yếu tố nêu trên.

  • Nhóm 1 gồm những quốc gia lý tưởng may mắn nhất: Vừa giữ được toàn vẹn lãnh thổ, vừa đảm bảo quyền tự quyết dân tộc như Mỹ, Canada, Anh, Pháp. Đây là hình mẫu lý tưởng của một quốc gia dân chủ, ổn định và phát triển.
  • Nhóm 2 gồm những quốc gia ít may mắn hơn, chỉ mất một phần lãnh thổ nhưng giữ được quyền tự quyết dân tộc: Như Đức, Nhật hay Hàn Quốc – dù từng bị chia cắt hoặc mất lãnh thổ, nhưng nhờ có thể chế dân chủ, họ vẫn phát triển mạnh mẽ.

 

  • Nhóm 3 gồm những quốc gia khá bất hạnh, chỉ giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ nhưng mất quyền tự quyết dân tộc như: Trung Quốc, Iran, Bắc Triều Tiên… Dù sự toàn vẹn lãnh thổ không bị xâm phạm, người dân tại đây không có quyền lựa chọn chế độ chính trị dân củ hay tự do ngôn luận.

Lý do nhóm này sắp dưới nhóm 2 vì tuy lãnh thổ định hình vị trí địa dư, di sản tổ tiên và tài nguyên của dân tộc, nhưng quyền tự do và hạnh phúc của con người cá thể quan trọng hơn.

  • Nhóm 4 gồm những quốc gia bất hạnh tột cùng, mất cả sự toàn vẹn lãnh thổ lẫn quyền tự quyết dân tộc như Tây Tạng, Mãn Châu Quốc và Việt Nam dưới gông cùm chế độ độc tài cộng sản – theo quan điểm của tác giả. Đây là những trường hợp bi thảm nhất, khi dân tộc vừa bị tước đoạt hoặc xâm phạm lãnh thổ, vừa không có quyền tự quyết dân tộc.

Thật vậy, CSVN là một chế độ toàn trị, về mặt đối nội ngang nhiên tước quyền tự quyết dân tộc của nhân dân Việt Nam qua Hiến Pháp 2013. Về mặt đối ngoại thì nhường Hoàng Sa, Ải Nam Quan, một nửa thát Bản Giốc, nhiều lãnh thổ và vùng lãnh hải khác cho CSTQ (nhưng không công bố minh bạch cho nhân dân). Tức CSVN bán rẻ lãnh thổ cho CSTQ hầu được phép tiếp tục cai trị trên đầu cổ nhân dân VN.

Một câu hỏi phải nêu ra là: Khái niệm nào quan trọng hơn?

Câu hỏi “khái niệm nào quan trọng hơn” không có câu trả lời tuyệt đối. Tuy nhiên, trong bối cảnh một dân tộc bị áp bức, không có quyền lựa chọn vận mệnh của mình, thì quyền tự quyết dân tộc trở thành điều kiện tiên quyết để khôi phục phẩm giá và nhân quyền. Một quốc gia có thể tồn tại về mặt địa lý, nhưng nếu người dân sống trong sợ hãi, không có tiếng nói như tại Việt Nam, thì sự toàn vẹn lãnh thổ chỉ là vỏ bọc trống rỗng.

Ngược lại, toàn vẹn lãnh thổ là điều kiện cần để duy trì hòa bình và trật tự quốc tế. Nếu mọi phong trào ly khai đều được chấp nhận, thế giới sẽ rơi vào hỗn loạn. Do đó, luật quốc tế chỉ công nhận quyền ly khai trong những trường hợp đặc biệt – khi quyền tự quyết dân tộc bị chà đạp nghiêm trọng. Công pháp quốc tế cũng không thể chấp nhận việc một quốc gia mạnh hơn như Nga Sô, trắng trợn chiếm đoạt lãnh thổ một quốc gia yếu hơn như Ukraine được.

Trong một thế giới lý tưởng, hai nguyên tắc này phải song hành: một quốc gia vừa có chủ quyền lãnh thổ, vừa tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc mình. Tuy nhiên, khi xung đột xảy ra, quyền tự quyết dân tộc – gắn liền với phẩm giá con người – nên được ưu tiên, đặc biệt trong bối cảnh đàn áp, độc tài và phi dân chủ như độc tài CSVN.

 



Saturday, 8 November 2025

 

Thế giới tự do tuy không hoàn hảo, nhưng lực lượng đối lập vẫn mang nhiều khuyết điểm nghiêm trọng hơn.

Luật sư Đào Tăng Dực

Trong bối cảnh địa chính trị toàn cầu đang chuyển biến, cuộc đối đầu giữa “thế giới tự do” và “lực lượng đối lập” không chỉ là cạnh tranh quyền lực, mà còn là cuộc thử thách giữa hai trật tự chính trị. Dù thế giới tự do – bao gồm Hoa Kỳ, Tây Âu và các nền dân chủ Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore – không tránh khỏi những khuyết điểm nội tại, nhưng so với khối BRICS và các quốc gia độc tài, họ vẫn là lực lượng bảo vệ trật tự chính trị dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên.

1. Thế giới tự do có thể định hình như một liên minh đa dạng nhưng dân chủ:

Thế giới tự do được định nghĩa bởi hệ thống chính trị dân chủ, có tam quyền phân lập, xã hội dân sự năng động và quyền tự do cá nhân được bảo vệ. Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore tuy khác biệt về văn hóa và thể chế, nhưng đều chia sẻ nền tảng dân chủ và cam kết với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.

Tuy nhiên, chính sự đa dạng và cơ chế dân chủ khiến thế giới tự do thường xuyên rơi vào tình trạng chia rẽ. Các cuộc bầu cử định kỳ, sự thay đổi chính phủ và xung đột lợi ích quốc gia khiến việc đạt được đồng thuận chiến lược trở nên khó khăn. Ví dụ, sự chậm trễ trong việc hỗ trợ Ukraine trước sự xâm lăng của Nga hay phản ứng không đồng nhất trước bá quyền Trung Quốc, nhất là sự hung hăn tại Biển Đông.

2. Lực lượng đối lập có thể định hình như một hợp tác chiến thuật giữa các chế độ dị biệt:

Lực lượng đối lập – bao gồm khối BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi) và các quốc gia độc tài như Iran, Venezuela, Triều Tiên – đang cố gắng xây dựng một trật tự nhằm thách thức ảnh hưởng vượt trội của phương Tây. Dù BRICS có sự hiện diện của các nền dân chủ như Ấn Độ, Brazil và Nam Phi, nhưng nhóm này lại bị chi phối bởi các chế độ độc tài như Trung Quốc và Nga – những quốc gia có hồ sơ nhân quyền tồi tệ và thường xuyên vi phạm luật pháp quốc tế.

Sự bất đồng giá trị trong nội bộ BRICS là một nghịch lý: làm sao một liên minh có thể cổ vũ “đa cực hóa” và “công bằng toàn cầu” khi một nửa thành viên đàn áp tự do báo chí, bỏ tù đối lập và xâm lược nước láng giềng? Việc Nga xâm lược Ukraine và Trung Quốc đe dọa Đài Loan là minh chứng rõ ràng cho bản chất bá quyền của một số thành viên BRICS.

 

Trong khi đó, từ nhiều thập niên trước đây, truyền thông quốc tế tương đối khuynh tả và có sự thiên lệch nguy hiểm cho tiến trình dân chủ hóa của các nước nhược tiểu, trong đó có Việt Nam.

Một trong những vấn đề đáng lo ngại là cách giới truyền thông quốc tế – đặc biệt là các cơ quan thiên tả – đã vô tình hoặc cố ý làm lu mờ những khuyết điểm của lực lượng đối lập.

Một phần vì các nước Tây Phương trong nhiều thế kỷ đã là những quốc gia thực dân, chiếm nhiều thuộc địa và gây tang tóc cho nhiều quốc gia nhược tiểu từ Phi Châu sang Á Châu. Trong khi đó, Truyền thông thiên tả đã quên rằng, lịch sử đã sang trang và các đế quốc độc tài cộng sản theo truyền thống Đệ Tam Quốc Tế của Lê Nin, hoặc giáo phiệt như Iran, mới là những ác nhân khát máu nhất nhân loại.

Trong khi các sai sót của phương Tây thường bị phóng đại, thì các hành vi đàn áp, xâm lược và vi phạm nhân quyền của Nga, Trung Quốc hay Iran lại bị biện minh bằng những lý do như “phản ứng với chủ nghĩa đế quốc phương Tây” hay “bảo vệ chủ quyền quốc gia”.

Sự thiên lệch này không chỉ làm méo mó nhận thức của công chúng toàn cầu, mà còn tiếp tay cho các chế độ độc tài biện minh cho hành vi của mình. Việc một số học giả và nhà báo phương Tây mô tả cuộc chiến Ukraine như “cuộc xung đột ủy nhiệm” thay vì một cuộc xâm lăng trắng trợn là ví dụ điển hình cho sự đảo lộn đạo lý.

3. So sánh khuyết điểm: Tự do hay độc tài?

Không ai phủ nhận rằng thế giới tự do có những vấn đề nghiêm trọng: phân cực chính trị, chủ nghĩa dân túy, bất bình đẳng kinh tế và sự trì trệ trong cải cách. Nhưng những khuyết điểm này diễn ra trong một môi trường nơi người dân có quyền lên tiếng, báo chí được tự do điều tra, và các thể chế có thể tự điều chỉnh.

Ngược lại, trong các quốc gia đối lập, đặc biệt là những chế độ độc tài, khuyết điểm không chỉ là hệ quả của sai lầm chính sách, mà là sản phẩm của một hệ thống bị bóp méo từ gốc rễ. Khi quyền lực tập trung tuyệt đối, không có cơ chế kiểm soát và người dân bị bịt miệng, thì sai lầm không thể sửa chữa – và thường dẫn đến những đàn áp nhân quyền tàn bạo hoặc thảm họa diệt chủng.

 

Chính vì thế một trật tự chính trị dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên tuy không hoàn hảo, nhưng vẫn là lựa chọn tốt hơn.

Thế giới tự do không phải hoàn hảo. Nhưng nếu phải lựa chọn giữa một trật tự dân chủ đầy tranh luận và một trật tự chuyên chế đầy đàn áp, thì lựa chọn vẫn rõ ràng. Trong thời đại mà truyền thông quốc tế thiên tả, sự thật bị bóp méo và giá trị đạo đức đảo điên, việc bảo vệ những nguyên tắc nền tảng của thế giới tự do – dù không hoàn hảo – vẫn là nhiệm vụ cấp thiết.

Không phải quan điểm dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên của phương Tây luôn đúng, mà vì lực lượng đối lập, với tất cả những mâu thuẫn và tội ác của mình, hàm chứa nhiều cơ hội cho những ác nhân của lịch sử như giáo phiệt Iran, CSTQ, CS Bắc Hàn, CS Cuba và nhất là CSVN sống lâu dài hơn trên xương máu của những dân tộc bất hạnh mà họ thống trị.

 



Monday, 3 November 2025

 

Sự gian dối của các chỉ số kinh tế Việt Nam

Luật Sư Đào Tăng Dực

Tháng 10 vừa qua, báo chí quốc doanh và Cơ Quan Thống Kê Quốc Gia, Cục Thống Kê, Bộ Tài Chính CSVN đồng loạt đưa tin rằng kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng 8.22% cho quý 3, năm 2025. Đây là một con số rất lớn không những đối với đà tăng trưởng của VN, mà còn qua mặt rất nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Các cơ quan thông báo, ngoài Cơ Quan Thống kê quốc gia, còn có BaoChinhphu.VN, VNExpress.net, VietStock.vn, Xaydungchinhsach.chinhphu.vn, Laodong.vn etc…đều là những cò mồi tuyên truyền cho chế độ hoặc một thành phần trực tiếp của chế độ. Dĩ nhiên bàn tay lông lá của đảng CSVN đã nhào nắn kỹ lưỡng chỉ số tăng trưởng ngoạn mục này.

Trong khi đó, World Bank dự báo tăng trưởng kinh tế VN chỉ đạt mức 6.8% cho 2025 và 6.5% cho 2026. IMF( International Monetary Fund) dự báo tăng trưởng chỉ 6.5% cho 2025.

Trước đó Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng cao hơn nhiều ở mức 8–10% cho năm 2025. Điều này cho thấy CSVN đã đánh giá sai tình trạng kinh tế, những biến động gần đây do chính sách thuế quan của Hoa Kỳ và những biến động toàn cầu khác.

Ngoài ra chủ trương “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Hiến Pháp 2013 đã kềm chế quá mức, thậm chí làm suy thoái sự phát triển kinh tế tư nhân nội địa, trong khi tạo điều kiên cho giới tư bản quốc tế làm giàu trên xương máu người lao động. Chính sách này làm kinh tế quốc gia suy thoái, khó chống chọi trước những biến động thị trường toàn cầu.

Một câu hỏi vô cùng chính đáng người dân bình thường tại VN phải nêu ra là: tại sao các chỉ số kinh tế càng cao thì đời sống nhân dân, nhất là người lao động, lại càng nghèo khổ, khó khăn và công ăn việc làm khan hiếm hơn?

Câu trả lời nằm nơi một khuyết điểm có tính cách hệ thống của chế độ.

Thật vậy, trong những quốc gia dân chủ thật sự, một cơ chế tương đương với Cơ Quan Thống Kê Quốc Gia, được luật pháp quy định là một cơ quan hoàn toàn độc lập, không thể chịu ảnh hưởng của bất cứ cá nhân, chính quyền, đảng phái hoặc thế lực nào. Các viên chức làm việc đều là những chuyên viên độc lập, vô tư, hầu có thể đánh giá khách quan, mọi thống kê trình bày với nhân dân và các cấp chính quyền.

Tất cả mọi cá nhân hay tập thể cố tình ảnh hưởng đến các con số thống kê, hầu tuyên truyền hay trục lợi cho cá nhân hoặc phe nhóm đều bị luật pháp chế tài nghiêm khắc.

Thông thường trong các nền dân chủ chân chánh như Úc, Hoa Kỳ và các quốc gia dân chủ khác, có những sắc luật về thống kê quy định nhiệm vụ, tính độc lập, hoặc có những Quy Ước Hành xử (Codes of practice) như Nguyên Tắc Nền Tảng về Thống Kê Chính Thức của Liên Hiệp Quốc (UN Fundamental Principles of Official Statistics) hay Quy Ước Hành Nghề Thống Kê của Âu Châu (European Statistics Code of Practice,) quy định các tiêu chuẩn không thiên vị, trong suốt và chuyên nghiệp trong thống kê.

Có thể nói rằng, những con số thống kê của một quốc gia, là mạch sống thật sự của dân tộc, cần phải được đo lường và chẩn mạch khách quan, nếu dân tộc  ấy muốn được thật sự sống còn và phát triển trong thế giới cạnh tranh ráo riết ngày hôm nay.

Chính vì thế, một trong những nhu cầu ưu tiên của tiến trình chuyển hóa dân chủ không nằm nơi những nguyên tắc hiến pháp xa vời mà nằm nơi sự cải tổ hành chánh hầu thành lập một Tổng Cục Thống Kê Quốc Gia hoàn toàn độc lập, vô tư không thiên vị.

Luật pháp phải quy định minh thị rằng:

1.      Tổng Cục Thống Kê Quốc Gia là một cơ cấu chuyên nghiệp, độc lập và phi chính trị. Bất cứ một cá nhân, đảng phái hay thực thể pháp lý nào cố tình ảnh hưởng, ngăn trở, xen lấn vào sự thi hành trách nhiệm luật định của nhân viên mọi cấp của tổng cục sẽ vi phạm một trọng tội hình luật.

2.     Tổng giám đốc tổng cục và các phó giám đốc do chính phủ đề nghị bổ nhiệm với sự đồng ý của quốc hội, nhiệm kỳ là 8 năm, có thể được tái bổ nhiệm và chỉ có thể bị cách chức với sự đồng thuận của quốc hội.

3.     Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp với quốc hội, trên phương diện vận hành và phúc trình với quốc hội mỗi năm về công tác và tình trạng thi hành các công tác luật định của tổng cục.

Chúng ta có thể khẳng định rằng, những con số thống kê của CSVN phần lớn nếu không nói là tất cả, là láo khoét và thổi phồng để duy trì chế độ, kể cả con số tăng trưởng 8.22% cho quý 3, năm 2025 vừa qua.

Hầu như chắc chắn các dự phóng của IMF hoặc World Bank về sự phát triển kinh tế VN cũng phần lớn dựa vào các con số thống kê dỏm của một nhà nước độc tài vì họ không còn nguồn thông tin khả tín nào khác. Các con số vừa nêu trên như World Bank dự báo tăng trưởng 6.8% cho 2025 và 6.5% 2026 và IMF dự báo tăng trưởng 6.5% cho 2025, đều là những con số thổi phồng trên thực tế.

Đảng CSVN, qua sự độc đoán và chi phối những con số thống kê, không những đã lừa bịp toàn dân, mà còn lừa bịp cả những định chế về tài chánh quốc tế nữa.