Phương hướng bảo vệ và phát triển
Phật Giáo Việt Nam trong giai đoạn Hậu Cộng sản
Luật sư Đào Tăng
Dực
Pháp danh: Chúc
Phán
I.
Dẫn nhập:
Từ ngày lập quốc
đến nay dân tộc Việt đã trải qua nhiều thảm họa và Phật Giáo Việt Nam cũng đã
trải qua nhiều pháp nạn. Chúng ta có thể khẳng định rằng vận mệnh của Phật Giáo
Việt Nam luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc và ngược lại.
Trong lịch sử đương
đại của dân tộc thì đảng CSVN vừa là một tai họa cho dân tộc vừa là một pháp
nạn của Phật Giáo và tiến trình dân chủ hóa hâu cộng sản chỉ hoàn mãn nếu Phật
Giáo Việt Nam, vốn là một thành phần quan trọng của dân tộc, được cải tổ nghiêm
túc.
Tôi được vinh dự
thuyết trình trong Đại Hội Kỳ 6 ngày 21 tháng 9, 2019 của Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Úc Đại Lợi & Tân Tây lan và tôi mạn phép điều
chỉnh tài liệu thuyết trình của tôi như một đóng góp vào “Phương hướng bảo vệ
và phát triển Phật Giáo Việt Nam hậu cộng sản”.
Tài liệu này đề
xuất một sách lược bao gồm các điểm sau đây:
1. Xây dựng một cấu trúc Giáo Hội Phật Giáo hoàn toàn
tản quyền hay phân quyền (decentralisation of powers) thay vì một thực thể tập
quyền (centralisation of powers). Dĩ nhiên với sự cáo chung của đảng CSVN, một
chính quyền dân chủ trung tương lai sẽ không còn chi phối sinh hoạt Phật Sự của
GH nữa.
2. Thực thi triệt để khái niệm nam nữ tuyệt đối bình
quyền giữa Tăng và Ni trong hàng ngũ giáo phẩm
3. San định kinh điển bằng cách:
a. Triệt để việt
hóa ngôn ngữ, không dùng Hán tự hoặc Phạn tự mà chỉ dùng chữ Việt
b. Loại bỏ các ngôn
ngữ mang tính mê tín dị đoan hoặc thần thoại
c. Loại bỏ những
ngôn ngữ mang tính ghê rợn hù dọa
d. Loại bỏ những
ngôn ngữ kỳ thị giới tính
4. Chuyển dịch kinh sách nhật tụng qua Anh Ngữ vốn là
ngôn ngữ toàn cầu hầu quốc tế hóa Phật Giáo Việt Nam.
5. Xây dựng trong giai đoạn hậu cộng sản một chính
đảng (i.e Đảng Dân Chủ Phật Giáo Việt Nam) tham gia chính trị tại Việt Nam lấy
Tứ Điệu Đế và Bát Chính Đạo cùng những bản giá trị Phật Giáo làm hành trang
tinh thần như Đảng Công Chính Nhật Bản Komeito (Phật Giáo) hoặc đảng Dân Chủ
Thiên Chúa Giáo tại Đức (Christian Democratic Union).
Phật tử chúng ta có
thể luôn hãnh diện vì tôn giáo của mình là một hệ thống tư tưởng từ bi và trí
tuệ vô lượng, hoàn toàn phi giáo điều, không giam cầm tâm linh con người trong
phạm vi khống chế của bất cứ một thần linh hay thượng đế nào, trừ nghiệp lực
của chính bản thân.
Tuy nhiên chúng ta
cũng sẽ vượt thoát nghiệp lực này, nếu chúng ta theo đúng con đường của Đức
Phật vạch ra cho chúng ta đi, hàm chứa trong Tứ Điệu Đế và Bát Chính Đạo.
II.
Hai sách lược chính
trị và xã hội vượt thời gian của Đức Bổn Sư:
Trong thế kỷ 21, khi
nghiên cứu về chính trị và xã hội, có 2 điều nổi bật làm chúng ta khâm phục và
ngưỡng mộ nhất nơi Đức Bổn Sư vì tuệ giác vượt thời gian của Ngài.
(a) Điều nổi bật thứ
nhất là Ngài chọn con đường không thành lập một Giáo Hội tập quyền
(centralisation of powers) mà chọn sự hình thành những tăng đoàn phạm hạnh,
sinh hoạt độc lập để truyền trao chánh pháp.
(b) Điều nổi bật thứ
hai là Ngài đã làm một cuộc cách mạnh vĩ đại, đi ngược với truyền thống trọng
nam khinh nữ của thời đại và cho phép giới nữ gia nhập hàng ngũ Tăng Ni. Điều
mà nhiều tôn giáo Trung Đông cũng như Âu Châu đến kỷ nguyên này vẫn chưa đủ can
đảm và trí tuệ để thực hành.
1. Tăng đoàn thay vì Giáo Hội:
Khi chúng ta quy y
Tam Bảo, theo lời dạy của Đức Bổn Sư, là chúng ta quy y với 3 thực thể nền tảng
của Phật Giáo. Đó là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Tăng Bảo tức là tăng đoàn,
gồm những Chư Tôn Đức bằng xương bằng thịt, như là những trưởng tử của Đức Như
Lai.
Đức Bổn Sư quy định
rằng chúng ta quy y Tam Bảo chứ không quy y giáo hội nào cả.
Duyệt lại lịch sử
của những tôn giáo chính của nhân loại, chúng ta thấy có 2 khuynh hướng tương
đối cực đoan đối nghịch với nhau:
Một là thành lập
những giáo hội chặc chẽ, tập quyền, có một hệ thống quyền lực căn cứ trên đẳng
cấp, kỷ luật và những giáo điều cũng như hình phạt nghiêm khắc đối với tín đồ
và những kẻ ngoại đạo. Điển hình là Giáo Hội Công Giáo thời Trung Cổ và Cận
Kim, các giáo hội Tin Lành, Các giáo hội Hồi Giáo, Khổng Giáo (ở mức độ giới
hạn hơn) thời phong kiến tại Đông Á. Đó là khuynh hướng tập trung quyền lực hay
gọi tắc là tập quyền (centralisation of powers).
Hai là chủ trương
hoàn toàn không có tổ chức và khuôn khổ nào cả, điển hình nhất là Lão Giáo tại
Đông Á thời phong kiến cũng như ngày nay. Đó là khuynh hướng vô vi (non-action)
của Lão Tử và các hệ thống tư tưởng Hư Vô (nihilism) của Tây Phương.
Khi đối diện với 2
chọn lựa như thế, Đức Bổn Sư đã dùng tuệ giác của mình, chối bỏ cả 2 cực đoan
và chọn lựa con đường trung đạo thứ 3.
Cách đây 2600 năm,
Ngài đã thấy trước rằng, nếu thành lập một giáo hội chặc chẽ với một cấu trúc
quyền lực mạnh, tập trung, thì giáo hội sẽ phát triển nhanh, nhưng trong lịch
sử sẽ trở thành một định chế xã hội đôi khi khống chế cả nhà nước lẫn xã hội
dân sự, gây khổ đau cho nhân loại.
Điều này sẽ đi
ngược với lòng từ bi vô lượng của Chư Phật. Ngài cương quyết từ chối đề xuất
này.
Cũng cách đây 2600
năm, Ngài đã thấy trước rằng, chủ trương hoàn toàn vô vi, phi khuôn khổ như Lão
Giáo, sẽ không đủ khả năng lưu truyền chánh pháp và phổ độ chúng sinh được.
Bằng chứng là Lão Giáo đã hầu như hoàn toàn mai một như một tôn giáo và hệ
thống tư tưởng.
Cái còn lại chẳng
qua là cuốn Lão Tử Đạo Đức Kinh và một vài áng văn chương bóng bảy của Trang Tử
trong Trang Tử Nam Hoa Kinh như là những diễm cảm nghệ thuật. Đạo giáo hay Lão
giáo bây giờ tại Trung Hoa chỉ là những tập tục mê tín dị đoan dân gian, không
còn giáo trị tôn giáo hoặc tư tưởng gì cả.
Như vậy thì con đường trung đạo của Đức Bổn Sư là
gì?
Đó là Ngài không
chủ trương một giáo hội đầy quyền lực, có tiềm năng khuynh đảo chính quyền và
xã hội dân sự. Nhưng Ngài chủ trương những Tăng Đoàn phạm hạnh, độc lập lẫn
nhau và hoằng dương chánh pháp sau khi Ngài viên tịch.
Cũng chính vì chủ
trương này mà nhiều thế hệ tăng lữ, từ Đức Phật cho đến chư tổ, các thánh tăng,
từ Ấn Độ đến Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Tạng và Việt Nam đã phát huy tư
tưởng Phật Đà và lưu truyền đến chúng ta ngày hôm nay.
Chư tăng đã thi hành công tác phổ độ chúng sanh,
trao truyền phật pháp này trong tinh thần hòa bình, từ bi vô lượng của Chư Phật
và trong suốt hành trình nhiều thiên niên kỷ, không có bất cứ giọt máu nào của
chúng sanh đổ xuống, nhân danh Phật Giáo cả.
2. Cách mạng giải phóng phụ nữ trên bình diện tâm
linh:
Một trong những bất
công nền tảng của nhân loại là bất công về giới tính, từ thủa bình minh lịch sử
cho đến bây giờ.
Bất công này hiện
hữu tại Tây Phương cho đến đầu thế kỷ 20 và tuy có nhiều cải tổ nhưng vẫn còn
bàn bạc bây giờ, nhất là trong các tôn giáo lớn Tây Phương.
Tại Đông Á thì tệ
hại không kém Tây Phương thời Trung Cổ vì truyền thống Khổng Giáo, ngày nay
đang cố gắng bắt kịp Tây Phương.
Tại Trung Đông và
các quốc gia Hồi Giáo thì tệ hại hơn nhiều. Người phụ nữ vẫn bị xem là công dân
hạng nhì và không được bình đẳng với nam giới trong xã hội lẫn trên bình diện
tôn giáo.
Tại Nam Á thì Bà La
Môn Giáo, ngoài các giai cấp khắc nghiệt ra, còn phân biệt đối xử với người phụ
nữ, mặc dầu Ấn Độ cũng như Đông Á, đang cố gắng bắt kịp Tây Phương.
Trên bình diện này,
khi Đức Phật đồng ý cho giới nữ gia nhập hàng ngũ Tăng Ni phạm hạnh của Ngài,
thì Ngài đã đi trước những lãnh đạo tôn giáo và tư tưởng gia khác của nhân loại
hằng ngàn năm.
Chúng ta sẽ bàn
luận thêm về tư tưởng cách mạng về bình quyền phụ nữ của Ngài ở đoạn sau.
3. Như vậy, trách nhiệm của người Phật Tử trong kỷ
nguyên mới là gì?
Đó là nắm bắt tinh
thần khai phóng của Đấng Từ Phụ, cập nhật hóa những sách lược tâm linh của
Ngài, khai triển những sách lược này trong thời đại mới hầu góp phần phổ độ
chúng sanh trong Tam Giới hiệu năng hơn.
III.
Trên bình diện cấu
trúc điều hành Giáo Hội:
Tại Việt Nam, trước
thời kỳ Thực Dân Pháp đô hộ bắt đầu năm 1884, các tôn giáo truyền thống như
Phật Giáo, Lão Giáo và Khổng Giáo sinh hoạt hầu như không có tổ chức. Ngoại trừ
Khổng Giáo có một giai cấp quan lại, thì không có tổ chức nào gọi là Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam cả. Chỉ có những chùa chiền và những tăng sĩ hay tăng đoàn
độc lập. Lão Giáo thì càng vô tổ chức hơn nữa.
Tuy nhiên, khi Đông
Á tiếp xúc với nền văn hóa Tây Phương thì xã hội, trong đó có sinh hoạt tôn
giáo cũng biến chuyển theo. Tại Việt Nam, dưới sự đô hộ của người Pháp và sau
đó miền Bắc dưới sự cai trị của người Cộng Sản, lẫn miền Nam dưới Đệ Nhất và Đệ
Nhị Cộng Hòa, từ từ các giáo hội phật giáo toàn quốc được thành lập. Dĩ nhiên
ngoài Bắc thì trở thành một ngoại vi cho đảng CSVN, theo đúng chủ trương xâm
nhập xã hội dân sự của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản.
Trong Nam thì Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống NHất cũng đã trực diện với những vấn nạn chính trị
phức tạp.
Ngộ biến thì phải
tòng quyền. Chúng ta phải nhận định ngay rằng, tại Việt Nam, việc đoàn ngũ hóa
các tôn giáo bản địa (như Phật Giáo, Cao Đài và Hòa Hảo) như những thành phần
của xã hội dân sự, đối trọng với chính quyền, là một khuynh hướng hầu như bất
khả vãn hồi của tiến trình dân chủ hóa và canh tân đất nước.
Tuy nhiên chúng ta cần ý thức những khuyết điểm
trong lịch sử đoàn ngũ hóa Thiên Chúa Giáo (Christianity) tại Tây Phương từ
thời Trung Cổ (Middle Ages) đến thời Ánh Sáng (Age of enlightenment), hoặc hiện
tượng đoàn ngũ hóa Hồi Giáo tại Bắc Phi và Trung Đông, từ thời Trung Cổ cho đến
bây giờ, hầu rút tỉa những bài học và tránh những thái quá đau thương đẫm máu,
phát xuất từ tiến trình định chế hóa các tôn giáo nêu trên.
Câu hỏi nghiêm túc
chúng ta phải đặt ra là:
Trong hoàn cảnh bất
khả kháng như thế, làm sao chúng ta có thể tiếp tục đi con đường trung đạo đầy
tuệ giác của Đức Thế Tôn, hầu tránh vết xe đổ của những tôn giáo khác?
Câu trả lời của
dành cho chúng ta là:
Muốn tránh những
vết xe sai lầm của các tôn giáo Tây Phương và Trung Đông, một Giáo Hội Phật
Giáo toàn quốc lý tưởng nhất nên mang các yếu tính nền tảng sau đây:
(1) Vị Giáo Chủ hay
Pháp Chủ chỉ giữ vị trí biểu tượng và nghi lễ
(2) Trung ương chỉ
giữ quyền liên hệ đến sự huấn luyện tăng lữ và duy trì phẩm hạnh tăng đoàn
(3) Quyền hành của
Trung Ương sẽ do một Hội Đồng Giáo Phẩm, bao gồm những Tăng Sĩ đại diện từ địa
phương, hành xử, không lệ thuộc vào một cá nhân duy nhất nào
(4) Cấu trúc giáo
hội phải trao nhiều quyền tự trị cho các cơ sở địa phương càng gần dân càng tốt
(như thành phố, quận, huyện và tỉnh)
(6) Địa phương có
toàn quyền quản trị tài sản bao gồm bất động sản và mọi hình thức tài sản khác.
(7) Trung ương chỉ
sở hữu những tài sản trực thuộc trung ương, hầu có khả năng duy trì và phát huy
trách nhiệm của mình.
Tóm lại, phải luôn
luôn tránh khuynh hướng trung ương tập quyền (centralisation of powers) và phải
luôn chủ trương phân quyền (decentralisation of powers) đến các cơ sở địa
phương càng nhiều càng tốt. Lý do vì chính tại các địa phương, với những tăng
lữ và tăng đoàn phạm hạnh, độc lập, không bị ràng buộc bỡi những cấu trúc quyền
lực, mới có khả năng trao truyền thông điệp tâm linh cao cả của Đức Thế Tôn, mà
không bị cuốn hút vào những tranh chấp chính trị, quyền lợi vật chất, giữa
những định chế khác nhau thuộc xã hội dân sự hoặc nhà nước.
A. Cấu trúc điều hành tổng quát Phật Giáo tại Việt Nam
hiện nay:
Tại Việt Nam trên
nguyên tắc có 2 giáo hội PG.
Thứ nhất là Giáo
Hội PGVN Thống Nhất (GHPGVNTN)
Thứ nhì là Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN)
1. Giáo hội PGVNTN: phát xuất từ năm 1963
cùng với phong trào chống sự đàn áp PG của Cố TT Ngô Đình Diệm và nền đệ nhất
cộng hòa tại Nam VN. GH chính thức ra đời năm 1964. Sau năm 1975 thì GH bất
đồng ý kiến với nhà cầm quyền CSVN và rút khỏi Mặt Trận Tổ Quốc. GH bị CSVN
tiếp tục đàn áp dữ dội và GH cũng bị chia rẽ nội bộ trầm trọng. Các GH hải
ngoại tại Hoa Kỳ, Âu Châu và Úc Châu vốn trực thuộc GH đã tách rời và sinh hoạt
hoàn toàn độc lập. GH nằm dưới sự điều hành của Đức Tăng Thống HT Thích Quảng
Độ cho đến khi HT viên tịch năm 2020 và HT Thích Tuệ Sỹ thay thế trong chức vụ
xử lý thường vụ Viện Tăng Thống của GH.
2. Trong khi đó Giáo Hội PGVN: được thành lập năm 1981
và là một thành phần của Mặt Trận Tổ Quốc và được sự ủng hộ của nhà cầm quyền
CSVN. Pháp chủ hiện nay là Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ.
Vì được sự ủng hộ
của chính quyền GH có cơ sở và phương tiện dồi dào, có cấu trúc từ Trung ương
đến tỉnh thành và quân huyện, cơ sở giáo dục huấn luyện tăng lữ đến cấp cao
đẳng Phật Học
Theo Wikipedia:
“Trong cả nước có
30 Trường Trung cấp Phật học và 06 cơ sở đào tạo Cao đẳng Phật học.
Cấp Đại học được
đào tạo tại các Học viện Phật giáo:
• Tại miền Bắc: Học
viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, đặt tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn.
• Tại miền Trung:
Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Huế
• Tại miền Nam: Học
viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh, đặt tại Thiền viện Vạn Hạnh
• Tại miền Tây Nam
bộ: Học viện Phật giáo Nam Tông Khmer tại thành phố Cần Thơ.”
Mặc dầu có khác
biệt về khuynh hướng chính trị giữa 2 GH nhưng cả 2 đều được tổ chức như những
GH tôn giáo theo truyền thống tây phương trong đó rất nhiều quyền lực tập trung
vào các cơ cấu trung ương (centralisation of powers). Dĩ nhiên GHPGVN tuy nhận
được nhiều trợ giúp về tài chánh và đất đai từ chính quyền CSVN, nhưng là một
thành phần của Mặt Trận Tổ Quốc nên bị sự chi phối của đảng CSVN và cũng vì
tính chi phối chính trị đó, phẩm chất và đạo đức của một số tăng lữ bị giảm
sút, nhất là tại các cơ sở PG miền Bắc VN.
Tóm lại cả 2 cấu
trúc GH không nhiều thì ít, đi ngược với tinh thần của 7 yếu tính cần thiết nêu
trên cho một giáo hội PG lý tưởng của tương lai.
Một Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam hậu cộng sản nên có một cấu trúc hoàn toàn tản quyền hay phân
quyền (decentralisation of powers) trong đó các cơ cấu địa phương như quân
huyện, tỉnh thành sẽ nhiều quyền lực về tài sản và điều hành hơn trung ương và
vị Tăng Thống hay Pháp chủ chỉ giữ nhưng vai trò có tình nghi thức và biểu
tương như đề xuất trong 7 yếu tính nêu trên.
Cấp thấp nhất phải là cấp có nhiều thực quyền thế
tục nhất (tài sản và pháp lý). Các chùa và tự viện địa phương này mới là nền
tảng của Giáo Hội, chứ không phải Giáo Hội Trung Ương.
Các thực thể địa phương, trên nguyên tắc là những
tăng đoàn phạm hạnh, truyền trao giáo pháp phổ độ chúng sanh.
Trên phương diện
luật pháp, các thực thể này sở hữu tài sản và có quyền quyết định độc lập về
mọi phương diện, trong phạm vi luật pháp.
IV.
Trên bình diện sách
lược bảo vệ và phát triển Phật Giáo
Một cách tóm lược,
sách lược của chúng ta, theo đúng tinh thần từ bi và trí tuệ của Chư Phật gồm 2
yếu tính chính:
1.
Một là kiện toàn sức mạnh nội tại của chính mình, qua sự loại bỏ những
khuyết điểm nội tại và phát huy những ưu điểm, nhưng không bao giờ có những
động thái nhằm mục tiêu làm suy giảm uy tín của các tôn giáo khác.
2.
Hai là quảng bá những ưu điểm từ bi và trí tuệ kiệt xuất của Phật Pháp
nhưng không đả phá những khuyết điểm của các tôn giáo khác
A. Sách lược bảo vệ Phật Giáo
1. Ưu tiên bảo vệ uy tín của hàng giáo phẩm:
Một trong những hy sinh
của Chư Tôn Đức khi trở thành trưởng tử của Như Lai của sự kiện chúng ta chấp
nhận không có một giáo hội mạnh, tập quyền. Cũng vì thế khi quý ngài bị các thế
lực vô minh bôi nhọ hay phỉ bán, thì uy tín các Ngài không sợ hữu được những
phương tiện bảo vệ chu đáo.
Điều này sẽ được
điều chỉnh nếu chúng ta theo đúng sách lược xây dựng một cấu trúc và sách lược
truyền thông nghiêm túc, một mặt phát huy chánh pháp, mặt khác bảo vệ chư tăng.
2. Hóa giải những âm mưu đánh phá Phật Giáo từ những
thế lực vô minh:
Tuy Phật giáo không
xem bất cứ chúng sinh nào trong Tam Giới là kẻ thù nhưng nhiều thế lực vô minh
có thể thù ghét Phật Giáo. Chính vì thế chúng ta vẫn cần những sách lược hầu
hóa giải những âm mưu đánh phá Phật giáo từ những thế lực vô minh đó.
Phật Giáo sẽ chiến
thắng vì 2 yếu tố tất yếu:
a.
Một là những khám phá mới mẻ nhất của Khoa Học, từ Vật Lý Vũ Trụ
(Astro-physics) đến Vật Lý Lượng Tử (Quantum Physics) đều phản ảnh đúng tư
tưởng Phật Đà và ánh sáng của khoa học chiếu rọi tới những hóc hẻm xa xôi nhất
của vũ trụ vô cùng vô tận, cũng sẽ là môi trường tốt cho ánh sáng của Tứ Điệu
Đế và Bát Chánh Đạo phát huy, hầu phổ độ chúng sinh.
b.
Hai là, cuộc cách mạng tin học đem sự thật, nhất là sự thật lịch sử nhân
loại, sự thật lịch sử Việt Nam, đến từng con người cá thể và sự thật này sẽ hóa
giải mọi âm mưu đánh phá Phật Giáo.
3. Hướng dẫn Phật tử về tu tập phật pháp:
Phật pháp tuy là
một hệ thống tư tưởng uyên thâm nhưng khác với những hệ thống tư tưởng thuần lý
thuyết Tây Phương ở chỗ Phật Pháp muốn viên thành phải thực tập và chứng
nghiệm, Chính vì thế các khóa tu hành vô cùng cần thiết, nhất là thiền định là
một trong những kỹ năng then chốt trong Bát Chánh Đạo.
4. Hướng dẫn phật tử về lịch sử khai quốc và kiến quốc
của dân tộc, vai trò của Phật Giáo trong suốt chiều dài lịch sử và các pháp nạn
Phật Giáo trải qua:
Đây là khía cạnh sự
thật lịch sử mà các phật tử phải nắm bắt trước khi tiếp tay với chư Tôn Đức
trong công tác hóa giải những đánh phá từ các thế lực vô minh.
5. Tổ chức thường xuyên buổi lễ vinh danh những danh
nhân Phật Giáo trong lịch sử, từ thời khai quốc đến nay như Thiền Sư Vạn Hạnh,
Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tôn, Bồ Tát Thích Quảng Đức, Thiền sư Thích Nhất Hạnh,
Thiền Sư Thích Thanh Từ, mời không những phật tử mà luôn cả những người ngoại
đạo tham dự.
B. Sách lược phát huy Phật Giáo:
Sách lược này bao
gồm các điểm sau đây:
1. San định và cập nhật hóa kinh điển sử dụng
tại các chùa và tự viện, loại bỏ những yếu tố sau đây ra khỏi kinh điển:
a. Tất cả những
quan điểm về thần thoại hoặc phép lạ vốn không phải là lời dạy của Đấng Thế Tôn
b. Những hình phạt
ghê rợn dưới địa ngục hầu răn đe chúng sinh không nên làm các điều ác
c. Những hình ảnh
vật chất xa hoa tại Phật Quốc hoặc cõi Niết Bàn hầu khuyến khích chúng sanh
hành thiện.
d. Những ý niệm kỳ
thị phụ nữ cần phải loại bỏ
Những yếu tố trên
thật sự một mặt không phù hợp với lời dạy của Chư Phật, mặt khác không còn phù
hợp với trình độ hiểu biết rất cao của con người trong thời đại tin học nữa.
Duy trì các yếu tố này trong kinh điển làm giảm giá trị trí tuệ của Phật Pháp
và hoàn toàn phản tác dụng.
Xin nêu ra một số
ví dụ điển hình về các yếu tố cần phải loại bỏ:
(1) Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, do HT Thích Trí Tịnh dịch có câu thuộc loại phép lạ không cần thiết:
“Bấy giờ, đức
Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh-sáng soi khắp
cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi
Phật đây.”
(2) Kinh Vu Lan Bồn
có những câu về những hình phạt thể xác không cần thiết như sau:
“Có ngài Mục Kiền
Liên
Vừa mới chứng được
Sáu phép thần thông
Lòng hiếu phát khởi
Muốn độ mẹ cha
Đền ơn nhũ bộ
Bèn dung mắt huệ
Xem cả thế gian
Thấy vong thân mẫu
Trong cảnh ngạ quỷ
chẳng uống chẳng ăn
Thân thể gầy ốm
Còn da bọc xương.
Mục Liên thương xót
Tức thời lấy bát Đựng cơm đem dâng
Mẹ Ngài vui mừng
Tay trái che bát
Tay mặt bốc cơm
Thảm thay thương thay
Cơm chưa tới miệng
Đã thành than lửa
Ăn không thể được”
(3) Kinh A Di Đà có
nhiều câu tiêu biểu về những xa hoa phú quý không cần thiết như sau:
“Này nữa, Xá Lợi
Phất, ở nước Cực Lạc có rất nhiều hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám công
đức, dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những lối đi làm bằng vàng,
bạc, lưu ly và pha lê; phía trên các con đường ấy lại có vô số lâu đài, cũng
được xây dựng và trang trí bằng các chất liệu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ,
xích châu và mã não. Sen trong các hồ lớn như những chiếc bánh xe, sen xanh
chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ,
sen trắng chiếu hào quang trắng, hương sen tỏa ra vi diệu và tinh khiết.”
(4) Trong các kinh
Phật nên loại bỏ các đoạn kỳ thị nam nữ như:
Kinh 48 lời nguyện
của Đức Phật A Di Đà. Nguyện thứ 2: Bỏ đi câu “Nước này tịnh giới, Đờn bà cùng
con gái tịch nhiên”.
Nguyện thứ 32: Bỏ
câu “Thập phương thế giới, những đàn bà con gái chán đời, phát tâm tín niệm
danh tôi, thân sau tránh khỏi phục hồi nữ nhơn”
Khoa học ngày nay
chứng minh rằng, làm người nữ hay người nam gì cũng như nhau mà thôi. Không
phải sanh ra làm nữ là thấp kém hơn.
3. Dịch ra Việt Ngữ tất cả các bài kinh chữ Phạn hoặc
chữ Hán trong nghi thức tụng niệm:
Tâm nguyện của Đức
Bổn sư cũng như Chư Phật là chúng sinh phải hiểu và chứng được chân lý hầu đạt
đến giác ngô viên mãn, thành Phật như quý ngài.
Chính vì thế thông
hiểu áo nghĩa của kinh điển là nền tảng của Phật Pháp.
Đọc và tụng kinh mà
không hiểu lời của chính mình đọc và tụng là gì, tự nó là một phi lý và phản
lại ý nguyện của Chư Phật và Chư Bồ Tát.
Ngày hôm nay, nhiều
chùa chiền và tự viện đã hiểu việc này nên một số các kinh điển được dịch ra
tiếng Việt. Nhiều kinh điển không những được dịch tiếng Việt mà còn được dịch
ra văn vần rất hay và dễ nhớ.
Tuy nhiên sự kiện
này chưa được đồng nhất trên khắp mọi nơi. Ngay cả cuốn Nghi Thức Tụng Niệm của
Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất tại NSW, Úc Đại Lợi cũng chưa được chuyển ngữ
sang tiếng Việt toàn bộ.
Tất cả các Kinh
hoặc thần chú hoặc châm ngôn dưới đây cần được chuyển dịch sang tiếng Việt hầu
các Phật Tử có thể hiểu được những chân lý chư Phật, chư Bồ Tát và chư Tổ giảng
dạy. Có như thế chúng ta mới có thể nâng cao tầm hiểu biết và sự tu chứng thật
sự của Phật Tử khi tụng kinh:
a. Chú Đại Bi đang
bằng tiếng Phạn hay Pali
b. Bát Nhã Tâm Kinh
đang bằng chữ Hán
c. Bài Bạt Nhứt thế
nghiệp chướng căn bản đắc sinh tịnh độ Đà La Ni đang bằng chữ Phạn hay Pali
d. Tiêu tai các
tường thần chú đang bằng chữ Phạn hay Pali
e. Kinh A di Đà
bằng chữ Hán
f. Kinh Phổ Môn
bằng chữ Hán
g. Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh Quán Thê Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm và các chân ngôn bằng tiếng Phạn hoặc
Pali và chữ Hán.
4. Song ngữ hóa Việt-Anh tất cả mọi kinh điển khi có
phương tiện, nhất là cuốn nghi thức tụng niệm
Một trong những
trách nhiệm quan trọng nhất của người Phật tử và nhất là hàng ngũ chư Tôn Đức
là quang đại Phật Pháp hầu phổ độ chúng sinh, không giới hạn màu da hay chủng
tộc. Chính vì thế kinh sách Phật Giáo, nhất là những bài kinh nhật tụng như
trong cuốn Nghi Thức Tụng Niệm, sau khi đã chấn chỉnh loại bỏ những yếu tố
huyền thoại hoặc thần quyền, những hình phạt rùng rợn hoặc những ngọc ngà châu
báu xa hoa, những ý niệm kỳ thị nữ giới, cần phải được chuyển dịch sang Anh Ngữ,
vì ngôn ngữ này, trong kỷ nguyên mới sẽ là ngôn ngữ toàn cầu.
Thêm vào đó, các
Giáo Hội Phật Giáo tại Úc hoặc Hoa Kỳ có trách nhiệm hoằng dương Phật Pháp, phổ
độ chúng sinh ngay tại các quốc gia đã cưu mang mình.
Dĩ nhiên khi chuyển
dịch như thế chúng ta cũng giúp các thế hệ người Việt trẻ tại 2 quốc gia này
hiểu biết thêm về phật pháp qua Anh Ngữ.
Nghi thức Tụng Niệm
là một hành trang tinh thần quan trọng của người Phật Tử. Chính vì thế sau khi
cải tổ, trong các chùa và tự viện Việt Nam và nếu có thể trên khắp thế giới sẽ
chỉ còn sử dụng một ấn bản (version) duy nhất song ngữ Anh-Việt, không còn Hán
Tự hay Phạn Tự, ngôn ngữ trong sáng và hiện đại mà mọi Phật Tử, từ già đến trẻ,
từ Việt đến Tây Phương, khi đọc hay tụng kinh này, sẽ hiểu thêm, mở mang trí
tuệ và hãnh diện vì tôn giáo của mình theo.
5. Giảng dạy phật pháp cho giới trẻ Việt Nam và cho
những người ngoại quốc bằng Anh Ngữ:
Đây là một công tác
cần thiết và tích cực hơn, ngoài chuyển dịch kinh sách qua Anh Ngữ, để phát huy
Phật Pháp và phổ độ chúng sinh. Tuy nhiên chỉ có thể hoàn tất nếu chúng ta đạt
được 3 điều căn bản. Một là san định các kinh sách để cập nhật hóa bằng cách
loại bỏ những mê tín dị đoan, hai là chuyển ngữ qua Anh Văn và ba là khuyến
khích đào tạo những tu sĩ thông thạo Anh Ngữ. Tuy chưa làm được bây giờ nhưng
chúng ta phải nghĩ tới và từng bước thực hiện.
6. Chuẩn bị thành lập các Viện Phật Học để sau đó trở
thành Đại Học Phật Giáo tại Úc Châu, Âu Châu và Hoa Kỳ:
Đây là hoài bão của
nhiều Phật Tử và nhiều chư Tôn Đức không những tại Việt Nam mà trên toàn thế
giới.
Phật Pháp là một hệ
thống tư tưởng uyên bác và khác hẳn với những tôn giáo bình thường, Phật Giáo
mang yếu tính phi giáo điều và khai phóng cho tâm linh.
Tư tưởng Phật Đà
trong Duy Thức Luận, Thiền Luận và ngay cả Tịnh Độ Tông chưa bao giờ xung khắc
với bất cứ khám phá nào mới mẻ nhất của khoa học, từ Vật Lý Vũ Trụ
(Astro-physics) đến Vật Lý Lượng Tử (Quantum physics) và luôn mang mùi vị giải
thoát.
Hơn bất cứ tôn giáo
nào khác, Phật Giáo cần phải có các Phật Học Viện và sau đó các Đại Học Phật
Giáo trên thế giới để tích cực phổ độ chúng sinh hơn.
7. Hoàn tất bình đẳng hóa giữa giới tính nam và nữ
trong hàng ngũ giáo phẩm.
Đức Bổn Sư đã khởi
đầu cho cuộc cách mạng khai phóng cho người phụ nữ thì trách nhiệm của chúng ta
là phải hoàn tất cuộc cách mạng đó để hoàn tất tâm nguyện của Ngài.
Nếu một Giáo Hội
như tại Úc Châu khởi đầu thì các giáo hội khác tại Âu Châu, Hoa Kỳ, Canada và
ngay tại Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan không biết chừng sẽ
cải tổ theo.
Tuy Ngài có tuệ
giác và đủ uy tín khi còn sinh tiền, hầu cho phép người nữ xuất gia, mà không
bị các quyền lực xã hội thủa xưa chống đối quá mạnh. Nhưng Ngài cũng phải tùy
duyên hóa độ. Chính vì thế Ngài phải chấp nhận tương đối phân biệt nam nữ khi
quy định giới luật cho Tỳ Kheo Ni nhiều hơn Tỳ Kheo Tăng.
Theo bài pháp của
Đại đức Gs. Tiến sĩ Thiện Minh thuyết giảng tại Thiền viện Bồ Đề, phường 8, Tp.
Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Tu nữ Quang Duyên ghi chép:
(https://www.facebook.com/suthienminh/posts/1701852176806874/)
“Có thống kê như
sau: Theo giới luật Phật giáo Bắc tông, tăng có 250 giới, ni có 348 giới. Phật
giáo Nguyên thủy về tăng có 227 giới, ni có 311 giới. Theo Hán tạng và Pali
tạng, bên ni có các điều giới nhiều hơn tăng. Phật giáo Nguyên thủy từ thời
Kiều Đàm Di mẫu cho tới ngày nay truyền thừa lại thì sự giữ giới của Tỳ kheo ni
như sau:
Một là, 8 pháp bất
cộng trụ (Parajika)
Hai là, 17 pháp
tăng tàn (Sanghadisesa)
Ba là, 30 điều ưng
xả đối trị (Nissaggiya Pacittiya)
Bốn là, 166 giới
ưng đối trị (Pacittiya)
Năm là, 8 Bất định
(Patidesaniya)
Sáu là, 75 ưng học
pháp (Sekhiya)
Bảy là, 7 Diệt
tránh (Adhikaranasamatha Dhamma)
Tổng cộng 311
giới.”
Quan điểm khác biệt
giữa các giới luật phân biệt nam nữ đã lỗi thời. Chỉ cần một hệ thống giới luật
duy nhất áp dụng bình đẳng giữa Tỳ Kheo Tăng và Tỳ kheo Ni là đủ, từ số giới
luật xuất gia, tuyển chọn giáo phẩm, tu học huấn luyện, thăng tiến trong hàng
giáo phẩm, bình đẳng trong đối xử v…v…
Đạo Phật của thế kỷ 21 sẽ không còn phân biệt đối
xử giữa nam và nữ trong hàng ngũ giáo phẩm.
Ngay từ ngày khai
đạo, Đức Bổn Sư đã có tuệ nhãn để nhìn xuyên thấu một bất công xã hội mà các
tôn giáo khác đến ngày nay vẫn chưa giải quyết được trọn vẹn. Đó là tính bình
đẳng tuyệt đối giữa chúng sinh, con người, không phân biệt màu da và nhất là
không phân biệt giới tính.
Ngoài ra còn 2 điều
phân biệt nữa là vị trí của các tỳ kheo ni luôn thấp hơn vị trí các tỳ kheo
tăng và hình như sự thăng tiến của họ trong hàng ngũ giáo phẩm cũng thua các tỳ
kheo tăng.
Cuộc cách mạng Kỹ Nghệ tại Âu Châu đã khai sáng một
kỷ nguyên mới đem lại phồn vinh và thịnh trào cho nền văn minh Tây Phương kể từ
thế kỷ 18 đến nay. Chính yếu là vì cuộc cách mạng kỹ nghệ đã giải phóng trí tuệ
và sức lao động của người phụ nữ Tây Phương.
Nếu Phật Giáo Việt
Nam chúng ta có thể nắm bắt thông điệp khai phóng phụ nữ của Đức Bổn Sư 26 thế
kỷ về trước, hoàn chỉnh nó và hoàn chỉnh sự bình đẳng giới tính tuyệt đối trong
hàng ngũ Tăng Ni Phật Giáo Việt Nam, bắt đầu từ một Giáo Hội như Úc Châu- Tân
Tây Lan, thì chúng ta sẽ khởi đầu một kỷ nguyên mới mà người Tỳ Kheo Ni sẽ đem
lại một sức sống, một nguồn năng lực mới, một dòng máu mới để đổi mới Giáo Hội,
làm giáo hội mạnh hơn, góp phần kiến tạo một Giáo Hội hùng mạnh hơn, phổ độ
chúng sinh Tam Giới hiệu năng hơn.
8. Xây dựng một chính đảng Phật Giáo là một nhu cầu vô
cùng cần thiết. Một trong những danh xưng cho chính đảng này là Đảng Dân Chủ
Phật Giáo Việt Nam (the Buddhist Democratic Party of Vietnam)
Phật giáo chỉ có
thể phát triển nếu có 2 vế rõ rệt: Một Giáo Hội đại diện khuynh hướng xuất thế
và một chính đảng Phật Giáo đại diện cho khuynh hướng nhập thế.
Đây không phải là
một ý niệm hoặc đề xuất mới. Thật sự những chính đảng mang màu sắc tôn giáo đã
hiện diện tại rất nhiều quốc gia dân chủ trên thế giới.
Các chính đảng như
thế hiện diện nhiều nơi tại các quốc gia Âu Châu, nổi bật nhất là Đảng Dân Chủ
Thiên Chúa Giáo (Christian Democratic Union) là đảng đang cầm quyền tại Đức.
Thứ đến là đảng Komeito (Công Chính) tại Nhật Bản lấy nền tảng Phật Giáo và
hiên đang là một junior partner trong Liên Minh cầm quyền tại Nhật Bản với đảng
Tự Do Dân Chủ Nhật (Liberal Democratic Party of Japan).
Trong nước Việt Nam
hậu cộng sản, một đảng Dân Chủ Phật Giáo sẽ có một chỗ đứng khả kính, góp phần
tích cực vào tiến trình phục hưng đất nước và chính đảng này, cũng như đảng
Công Chính tại Nhật Bản, sẽ góp phần xây dựng tính tích cực dấn thân xã hội của
người Phật Tử Việt Nam.
Chủ trương rường
cột của chính đảng này sẽ được những người dấn thân chủ trương chi tiết hóa
trong một cương lĩnh đảng, nhưng chúng ta có thể mường tượng một số nét chính
như sau:
1. Trên bình diện
tâm linh, đảng chủ trương lấy Tứ Diệu Đế và Bát Chính Đạo làm nền tảng tinh
thần
2. Trên bình diện
chính trị, đảng chủ trương xây dựng và kiện toàn một nền dân chủ hiến dịnh,
pháp trị và đa nguyên chân chính
3. Trên phương diện
giáo dục, đảng chủ trương một nền giáo dục:
a. Khai phóng,
b. Phi ý thức hệ,
c. Phi giáo điều
d. Nhấn mạnh 2 yếu
tố khoa học và lịch sử trong giáo trình
4. Trên bình diện
tôn giáo đảng chủ trương bình đẳng và hài hòa giữa những tôn giáo
5. Trên bình diện
xã hội đảng sẽ có những sách lược có khuynh hướng cấp tiến nhưng trên bình diện
luân lý đạo đức sẽ có những chủ trương có khuynh hướng bảo thủ
6. Trên bình diện
sách lược kinh tế, đảng chủ trương quân bình giữa 2 khuynh hướng sáng tạo của
cải và tái phân phối của cải
7. Đảng cũng sẽ chủ
trương một sự phân biệt nghiêm khắc giữa thế quyền và giáo quyền (separation of
church and state). Chính vì thế cương lĩnh của đảng sẽ không cho phép những vị
tỳ kheo xuất gia trở thành đảng viên của đảng.
8. Tương quan giữa
Giáo Hội và Đảng không phải là một tương quan trong đó, đảng là một công cụ
chính trị (political arm) của Giáo Hội hoặc ngược lại GH trở thành một công cụ
tâm linh của Đảng. Trái lại đây là một tương quan bình đẳng hổ tương cho nhau.
Giáo hội là linh hồn giúp cho đảng phát huy lý tưởng Tứ Điệu Đế và Bát Chính
Đạo, trong khi Đảng Hộ Trì cho Tam Bảo qua tự thân của Giáo Hội. Tuy nhiên GH luôn
đứng ngoài và bên trên mọi quyết định về sách lược chính trị của đảng. Vì GH
chỉ là một thực thể tản quyền (decentralisation of powers) nên xác xuất giáo
quyền lấn át thế quyền hoặc ngược lại rất thấp nếu không nói là không hiện hữu
trong tương quan này.
V.
Kết luận:
Khi nào chúng ta
cải tổ được như trên, trở nên một thực lực mạnh trong xã hội dân sự, có một cấu
trúc giáo hội tuy phân quyền nhưng hoạt động hiệu năng, bên cạnh một chính đảng
dấn thân vì tổ quốc, thì không còn ai hoặc thế lực nào chèn ép hoặc thao túng
Giáo Hội được nữa.
Phật Giáo như một con khổng tượng đang ngủ và khi
nó thức giấc, sẽ đem lại hòa bình vĩnh cửu cho nhân loại và chúng sinh Tam
Giới.
Nêu trên là thiển ý
của một phật tử tuy đã quy y Tam Bảo nhưng không hiểu biết nhiều về Phật Pháp.
Dĩ nhiên có điều
đúng và có điều sai. Hoặc có điều chưa thi hành được trong thời điểm này, nhưng
trong tương lai có thể.
Nếu có điều mạo
phạm mong các vị thiện tri thức và độc giả niệm tình tha thứ.